Thời gian gần đây có 2 vụ kỳ án văn học :
Bài luận văn của cô Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan và Việc sửa lại truyện Kiều của kĩ sư Đỗ Minh
Xuân với đề tựa của GS Vũ Khiêu… Bài phân tích nầy rất hay, nhưng không hiểu
sao trong thời gian gian dài, có nhiều bài viết chê trách như thế mà vẫn không
thấy phản hồi của 2 ông Đỗ Minh Xuân và GS Vũ Khiêu ?
Thôi thì xin mạn phép cụ Nguyễn Du : Phải trò mèo mả, gà đồng.
Minh Xuân lại kéo lòng thòng Vũ Khiêu.
(Trịnh Kim Thuấn).
Với ông kĩ sư Đỗ Minh Xuân, tôi cũng chẳng lấy gì ngạc nhiên cho
lắm. Tôi còn gặp một ông đã từng hô to “Kéo cổ Nguyễn Du xuống, ta mới là đại
thi hào của Việt Nam ”
nhưng với ông giáo sư Vũ Khiêu thì tôi đã thực sự ngạc nhiên. Tôi đã tự hỏi :
Một người danh đã có, lợi cũng đã có và chắc ông viết lời giới thiệu cho cuốn
sách của ngài kĩ sư Đỗ Minh Xuân không phải vì mệnh lệnh của một ai đó thì tại
sao lại đi làm cái chuyện này? Tôi chịu không thể trả lời được
Ông Vũ Khiêu nói “Với một tinh thần khoa học rất nghiêm
túc”(1).
Vậy thế nào mới là khoa học?
Xét về mặt văn bản chúng ta phải nói rằng “ Một chữ của tác giả
ta cũng không được phép sửa đổi”. Đấy không những là khoa học mà cao hơn, nó
còn là pháp lý về “Quyền sở hữu trí tuệ”
Văn bản gốc của truyện Kiều do Nguyễn Du viết đã bị thất lạc.
Truyện Kiều được lưu giữ cho đến ngày nay là do truyền miệng. Mãi về sau này
mới được in thành sách. Trong quá trình truyền khẩu ấy truyện Kiều đã bị sai
lạc khá nhiều, do nhớ nhầm. Sau này, khi được in thành sách, truyện Kiều vẫn
tiếp tục bị sai lạc do tam sao thất bản. Nhưng tất cả sự sai lạc này đều do vô
thức tạo nên. Đây là lần đầu tiên sự sai lạc có ý thức xảy ra đối với truyện
Kiều.
Chính sự sai lạc này đã làm đau đầu những nhà “Kiều học” Họ đã phải
đau đầu, cân nhắc từng chữ, tranh luận với nhau hàng năm trời để cố gắng tìm ra
đâu mới là từ mà Nguyễn Du đã dùng. Họ cố gắng đưa truyện Kiều về gần nhất với
văn bản gốc. Đó mới là khoa học.
Trên thế giới cũng vậy! Tượng thần vệ nữ người ta tìm thấy thiếu
mất hai cánh tay. Các nhà tạo hình trên thế giới hoàn toàn có thể tạo ra hai
cánh tay khác để lắp vào bức tượng và bức tượng chắc chắn là sẽ đẹp hơn nhưng
họ đã không làm. Tại sao vậy? vì một điều rất đơn giản : Chắc gì hai cánh tay
mới làm ấy đã đúng với bản gốc của bức tượng.
Những sửa chữa, tôn tạo để khắc phục sự xuống cấp các di sản văn
hóa chỉ được phép làm lại đúng như bản gốc không được phép sửa đổi còn những
thứ không có bản gốc thì phải giữ nguyên hiện trạng dù rằng nó chỉ còn là phế
tích, mặc dù với kĩ thuật tiên tiến hiện nay người ta hoàn toàn có thể dựng lại
hiện trang ban đầu bằng kĩ thuật máy tính
Với một tinh thần “Khoa học một cách nghiêm túc” Ông Vũ Khiêu đã
khuyến khích một việc làm ngược lại :Sửa một văn bản mà bao nhiêu người đã cố
gắng đưa nó về gần đúng với văn bản gốc thành một văn bản… ( Tôi cũng không
biết phải gọi thứ văn bản này là thứ văn bản gì).
Ông còn viết
“ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều
cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng
Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều”
Tôi không hiểu ông Vũ Khiêu nghĩ gì khi viết câu này!.
Thứ nhất – Về tính đại chúng của truyện Kiều thì đâu cần những
người trí thức lùn như các vị phổ cập nó. Thử hỏi trong nền văn học Việt từ
trước đến nay có tác phẩm văn học nào mà chin mươi triệu người dân thì nói
không ngoa phải có đến sáu bảy mươi triệu người biết đến nó. Có tác phẩm văn
học nào mà từ Bắc chí Nam
ai ai cũng thuộc một đôi câu như truyện Kiều.
Thứ hai: Phải khẳng định rằng truyện Kiều là một tác phẩm đỉnh
cao. Nghĩa là nó không chỉ dành cho những người có trình độ thị dân mà còn là
cuốn sách dành cho những tác giả.
“gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để
thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều”.
Chẳng lẽ ông không hiểu rằng chính những điển tích mà Nguyễn Du
đã dùng chính là tinh hoa của truyện Kiều?
Ta thử xét một câu trong truyện Kiều:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Nếu là một người bình thường, người ta vẫn hiểu được hai cô gái
đẹp lắm. Nếu là một học giả họ còn biết cao hơn thế. Khi đọc đến đây họ phải vỗ
đùi khen rằng: Sao cụ Nguyễn Du tài thế! Cụ đã dịch được hai câu thơ Đường:
Nhất tiếu khunh nhân thành
Tái tiếu khunh nhân quốc
Mà không ai có thể dịch hay hơn. Thay câu thơ này bằng bất cứ
câu nào thì cũng tước bỏ đi cái phần dành riêng cho các học giả. Đồng nghĩa với
việc biến một tác phẩm đỉnh cao thành một tác phẩm thị dân.
Ta hãy thử xét một vài câu thơ mà ông kĩ sư đã thay để xem thử
ông đã tầm thường hóa truyện Kiều như thế nào khi bỏ đi những điển tích.
Rằng: nghe nổi tiếng cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung Kì
Nước non luống những lắng tai Chung Kì
Theo ông Thế Anh thì hai từ Chung Kì ở đây được thay bằng hai từ
“Ngưỡng vì”
Nên câu thơ trở thành
Rằng : Nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai ngưỡng
vì.
Thôi được ta cứ hiểu một cách cục mịch như ông Xuân đi thì câu
đó có nghĩa “Ta nghe nói nàng nổi tiếng đàn hay ta ngưỡng mộ đã lâu” thế thì
hai từ “Nước non” trong câu thơ phải giải thích thế nào đây? Chẳng lẽ là “Cả
nước ngưỡng mộ” ? đấy là chưa kể đến hai từ “ ngưỡng vì” Nghe rất “Củ chuối”.
Chắc ông kĩ sư cũng chẳng ngu gì mà không tra cứu cái tích của hai từ Chung Kì . Ông biết nhưng ông lại không
hiểu.. Khi hiểu hai từ Chung Kì là nói đến Bá Nha và Tử Kì thì câu thơ còn hàm
một nghĩa khác không chỉ dừng lại ở cái nghĩa là ngưỡng mộ. Đó là sự khẳng định
của Kim Trọng “Ta sẽ là người tri âm , tri kỉ của nàng” câu thơ cao vượt lên
hẳn vài bậc so với sự ngưỡng mộ thông thường. Và phần này của câu thơ để dành
cho những vị học thật chứ không dành cho những người” Học giả”.
(Tôi cũng phải xin lỗi trước là tôi không có quyển sách của ông
Đỗ Minh Xuân nên tất cả những từ thay đổi, tôi theo đúng của ông Thế Anh trong
bài viết “Tại sao ông Vũ Khiêu lại nối giáo cho giặc”. Nếu có gì sai sót tôi thành thật xin
lỗi tất cả mọi người).
Ta thử một câu nữa:
Vâng lời khuyên nhủ thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dào
mạch Tương.
Ở đây ông Xuân thay cụm từ “Đã đào mạch Tương” Thành “Đã chào
vầng Dương” nên câu thơ trở thành:
Vâng lời khuyên nhủ thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã chào
vầng dương.
Rõ ràng khi thay đổi ba từ này nghĩa
câu thơ đã thay đổi hoàn toàn. Ở câu trên câu thơ có nghĩa “ Nghe chưa hết lời
khuyên nước mắt nàng đã lại trào ra” Thể hiện một cô gái đa cảm. Ở câu câu dưới
câu thơ lại có nghĩa “ Chưa nghe hết lời khuyên nàng đã hớn hở chào đón một
ngày mới” Sao tôi lại dùng hai từ hớn hở? Vì cái từ “Chào” mà ông Xuân đã dùng.
Thể hiện một cô gái nông cạn và vô cảm. Biến nàng Kiều từ một cô gái đa cảm
thành ra một cô gái vô cảm và nông cạn đấy là “Một ý tưởng lớn” của ông kĩ sư
cơ khí mà ông Vũ Khiêu đã ca ngợi
Ta hãy xét thử thêm một câu nữa để
thấy thay từ thuần Việt cho điển tích câu thơ sẽ ra sao.
Câu 507:
Phải trò trên bộc dưới dâu
Ông thay bằng “Trên cỏ dưới dâu”. Thoạt nghe có vẻ thuận, Có
lý.
Phải trò trên cỏ dưới dâu
Nhưng nếu xét lại cả câu theo cái
nghĩa thuần Việt thì câu này vô nghĩa. Chúng ta không có cái trò nào trên cỏ
dưới dâu cả. Muốn câu này có nghĩa đúng như cụ Nguyễn Du viết mà lại thuần Việt
thì phải viết là
Phải trò mèo mả gà đồng
Nhưng nếu viết thế thì lấy vần đâu bắt
cho câu dưới. Để thuần Việt ông bèn biến một câu có nghĩa nhưng cần kiến thức
rộng thành một câu vô nghĩa. Thiên tài! Làm gì mà ông Vũ Khiêu chẳng khen hết
lời
Ta tạm dừng phần thay đổi những tích
Hán Việt ở đây mà chuyển sang phần thay đổi từ ngữ không phải tích Hán Việt xem
thử cái mà ông Vũ Khiêu nói ông đã có ý tưởng lớn nó như thế nào. Câu dễ thấy nhất là
câu:
Sè sè nấm đất bên đường.
Ông Xuân sửa là
Se se nấm đất bên đường với lời giả thích (Theo như bài viết
của ông Thế Anh)
“.Ông
phân tích đó là nấm mồ vừa mới đắp, đất hơi se se, cỏ chưa hồi phục hẳn, nên
đang còn nửa vàng nửa xanh.
Tài thật! Xin hỏi ông Xuân thế còn hai câu
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ ai mà
viếng thăm
của Cụ Nguyễn Du là chỉ nấm mộ của ai đây?
Còn câu “ Bóng
hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời”
Ông thay từ vẻ thành từ ve “Ve ngân ngang trời” . Đọc câu này của ông tôi lại sực nhớ
đến chuyện Tô Đông Pha sửa thơ của Vương An Thạch
Minh Nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm
Thành
Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Phải bao nhiêu năm sau Tô Đông Pha mới biết kiến thức mình non
nớt. Nhưng với từ vẻ thành ve thì chúng ta không cần phải lâu đến
thế. Chỉ cần đưa mắt đọc lên câu trên
Cửa thiền vừa tiết cuối
xuân
Thì ta thấy ngay sự non nớt về kiến thức của ông Kĩ sư họ Đỗ.
Tiết cuối xuân nghĩa là vào tháng hai đến tháng ba âm lịch lúc ấy thì đào đâu
ra ve. Hay là “Tiếng ve năm ngoái còn vờn ông Xuân” ?
Ta hãy xét đến một từ khó hơn mà lại khó hơn rất nhiều đó chính
là từ “Chiếc” của cụ Nguyễn Du thành từ “Đơn” hay từ “Lẻ” của ông kĩ sư cơ khí
vì từ này để cảm nhận được cái hay của nó cần phải có một sự mẫn cảm hết sức
tinh tế và kiến thức sâu rộng của người thưởng thức
Trong thành ngữ của chúng ta có câu thành ngữ rất hay “Chăn đơn,
gối chiếc” Chăn đơn là loại chăn mỏng ( chứ không phải là loại chăn chỉ dùng
cho một người ). Nó không đủ ấm vào mùa đông nên chăn đơn hàm chỉ sự lạnh lẽo.
Gối chiếc là loại gối chỉ dùng cho một người vì vậy nó hàm chứa một nội hàm cô
đơn ở bên trong
Trong ca dao có câu:
Đêm đêm canh giữ phòng không
Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng môt thân
Vậy từ “ Chiếc” luôn luôn đi với sự cô đơn. Còn từ đơn muốn chỉ
sự cô độc thì lại luôn đi với từ lẻ thành một từ kép” đơn lẻ”.Ở đây
phải thấy sự nhuần nhuyễn về tiếng việt của cụ Nguyễn Du. Chỉ sự cô đơn bao giờ
cụ cũng dùng từ chiếc
Người về chiếc bóng năm canh
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa soi gối chiếc , sửa soi dặm trường.
Thế đấy ! Muốn dùng từ thuần Việt cũng không hề dễ đâu.
Phải thuộc, hiểu một cách sâu sắc về ca dao tục ngữ thì dùng từ thuần Việt mới
hay và chính xác. Phải đặt cái từ ấy vào trong tổng thể của cả đoạn thơ chứ
không thể bạ từ nào thay từ ấy như ông Xuân đã làm.
Truyện Kiều là một tác phẩm đỉnh cao. Một cây cổ thụ được hai
ông Vũ Khiêu và Đỗ Minh Xuân bứng đi trồng thay vào đấy là một cây cỏ dại.
Bỗng thấy thương cho cụ Đào Duy Anh quá. Hai kẻ hậu sinh đã hóa
vàng cho cụ bằng chính cuốn « Từ điển truyện Kiều » . Ôi ! những
nhà văn hóa !
Hà nội 28-4-2014 NGUYỄN
THẾ DUYÊN .
Rút từ bài: Nhân có kẻ đốt đền vẩn vơ nghĩ về văn
hóa
.........................
[1]Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu
hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, tìm đọc
hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện
Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều
cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng
Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi
hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này
của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…” - Vũ Khiêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét