12 thg 6, 2013

TRUYỆN NGẮN MỘ BÀ TRẦU của MINH DIỆN


Con rạch  rộng khoảng gần chục mét, rong rêu và cỏ năn mọc kín.  Hai bên  bở lác đác những cây dâu, cây cậy khẳng khiu. Một chiếc cầu  đá  bắc  qua  con rạch  nối con đường mòn từ làng tôi đến làng  Đọ.  Cạnh  cầu đá có cây đa cổ thụ soi bóng xuống con rạch. Người ta gọi đó là cây đa Cầu Đá.

Cách đây lâu lắm, không nhớ rõ năm tháng nào, có một người đàn bà sinh sống  ở gốc đa này. Bà khoảng năm chục tuổi, thân hình nhỏ bé, khuôn mặt phúc hậu. Điểm nổi bật nhất ở bà là trừ khi ăn cơm còn lúc nào cũng nhai trầu . Không ai biết danh tính và quê quán bà ở đâu, dân làng quen gọi là bà Trầu.

                
 Ngày ấy  hai bên đầu cầu có vũng lội. Làng tôi bảo vũng lội đó thuộc làng Đọ thì làng Đọ phải đắp. Ngược lại, làng Đọ nói vũng lầy ấy thuộc địa phận làng tôi. Hai làng cứ đùn đẩy nhau như vậy,  nên vũng lầy rộng mãi ra, khách bộ hành đi lại rất khó khăn. Người gồng gánh bị đổ vỡ, có những ông bà già trượt ngã, nhất là ban đêm lọ mọ đi qua vũng lầy ấy.
               
 Hiểu nỗi khổ của người qua đường, bà Trầu khi ấy còn khỏe ngày ngày túc trực bên cạnh vũng lầy. Bà sẵn sàng gồng gánh giúp những người buôn bán, hoặc cõng ông già bà lão qua vũng lầy. Ban đêm bà thắp ngọn đèn chai, báo hiệu  cho mọi người biết vũng lầy, và cũng sẵn sàng giúp đỡ  người qua đường. Ai  cho vài xu hoặc lon gạo, mớ rau tùy lòng, bà không than thở, van xin. Nắng cũng như mưa, cả những đêm đông rét cắt da thịt, bà vẫn một mình ở gốc đa, làm công việc đó. Hình bà in đậm òng dân làng và khách bộ hành.
             
 Vào một buổi sáng, người đi đường không thấy Trầu đứng bên vũng lầy. Nhìn quanh thấy bà ngồi dựa vào gốc đa. Mọi người gọi, bà  không thưa, tới lay, thì thấy bà đã chết tự bao giờ rồi. Thân hình  nhỏ bé gầy ốm quắt queo như cây sậy với khuôn mặt hiền lành phúc hậu của bà  lạnh  ngắt trong bộ  bộ quần áo nâu nhiều mảnh vá, miệng bà vẫn ngậm miếng trầu.
               Quanh năm suốt tháng làm nghề ăn xin và giúp người qua lại vũng lầy, bà Trầu chẳng có tài sản gì ngoài cái niêu đất và ông bình vôi.  Dân làng gom góp tiền mua cho bà chiếc hòm và chôn bà gần gốc cây đa
              
 Bà không có con cái người thân, nhưng đám tang rất đông. Các cụ trong làng làm lễ  rước hồn  bà về chùa để bà nương nhờ cửa Phật. Tám cụ bà đội khăn đóng, mặc áo tứ thân, thắt lưng điều, cầm bơi chèo, chèo thuyền chở hồn bà Trầu :
                                               
                                         Dô hầy.
                                               
                                         Dô hầy .
                                         Nhổ sào mà đẩy!
                                         Mà đẩy thuyền lên!
                                          Ngược dòng bể khổ!
                                          Cho hồn lên tiên!
                                          Chèo lên cho đến cõi tiên!
                                          Lênh đênh mặt nước về miền bồng lai...
                                          Dô hầy!
            
 Ngôi mộ bà Trầu  không không có bia mộ, nhưng mỗi ngày lại cao thêm, bởi  mỗi người khi ngang qua đều bốc một nắm đất đắp lên  để tỏ lòng thương tiếc bà. Cạnh ông bình vôi trên mộ bà lúc nào cũng có trấu cau tươi. Có tin đồn bà rất linh thiêng, ai muốn cầu xin điều gì  ra thắp nhang thành tâm khấn , bà đều phù hộ. Ngôi mộ vô danh càng cao và ngày đêm nghi ngút hương khói. 
            
 Ngày còn bé tôi thường đi đánh dậm ở rạch Cầu Đá. Trước khi xuống rạch,  tôi cầm chiếc giỏ  khấn trước mộ bà Trầu : “Bà phù hộ cháu được đầy giỏ cá cháu sẽ mua cho bà quả cau lá trầu tươi !”  Có đêm  mưa rào, tiếng ếch kêu uôm uôm ở rạch  Cầu Đá, chúng tôi rủ nhau đi bắt, cũng khấn bà Trẩu phù hộ.
             
Thời gian trôi đi, bao nhiêu  đổi thay. Người ta phá chiếc cầu cổ kính lấy đá nung vôi, thay vào một chiếc cống bê tông. Con đường được rải nhựa. Cây đa cổ thụ càng già cỗi, bão đánh đổ , dân làng trồng một cây đa khác. Rạch nước nông cạn hơn, hai bên bờ bị lấn, có chỗ nhỏ tóp lại, trở nên ngoằn ngoèo. Những cây dâu với những chùm quả chín thẫm ngày xưa cũng bị chặt hết , bờ rạch um tùm cỏ dại và gai mắc cỡ. Nhưng mộ bà Trầu vẫn không ai xâm phạm, vẫn có khói nhang, và vẫn có trầu cau bên bình vôi . Dân làng vẫn dành cho bà tình yêu thương, kính trọng như hàng chục năm trước.
             
  Năm kia tôi về thăm quê, thấy cạnh gốc đa, trước mộ bà Trầu, mọc lên ngôi miếu thờ , mái ngói đỏ tươi.
             
 Tôi đến thăm thầy giáo Quỳnh, người dạy tôi từ năm lớp ba, gần sáu chục năm trước. Thấy bảo   có người đàn ông khoảng bảy chục tuổi, đưa con cháu đến  nhận mộ và sau đó thuê xây miếu. Người ấy  nói, đây chính là mộ bà tổ cô mình. Câu chuyện  mang đậm tính liêu trai, rằng vào  năm  Bính Tý, 1936,  gia đình ông nội ông  chết đói gần hết,  còn lại phiêu dạt khắp nơi. Trong số người phiêu dạt  có bà tổ cô này. Bà  không có chồng con, từ nhỏ đã nổi tiếng hiền hậu, chăm làm, hay giúp đỡ người khác.  Sau bao nhiêu năm  tìm kiếm khắp nơi , vừa qua ông được bà tổ cô về báo mộng, chỉ đường cho ông tìm tới tận nơi bà yên nghỉ.
             
   Không ai  tìm hiểu câu chuyện đậm nét liêu trai kia sự thật đến đâu, ngược lại mọi người  rất hoan hỉ với gia đình người nhận mộ. Dân làng tình nguyện  góp thêm công của xây ngôi miếu.  Hôm khánh thành ngôi miếu, cả  làng tập trung  dâng hương. Ngôi miếu bà Trầu trở thành một di tích văn hóa tâm linh của làng tôi.
             
Thầy giáo Quỳnh nói với tôi:
             -Dẫu  không phải mộ của gia đình người ta thì cũng đáng trân trọng! Một bà lão ăn xin vô danh, làm được một việc tốt giúp dân,tình cảm đọng lại trong lòng dân và lan tỏa  như vậy .  Thời gian tìm đến cái chết , mọi thứ  đều sẽ bị hủy diệt bởi thời gian, nhưng  tình yêu tìm đến linh hồn, vì vậy mà tình yêu bất tử.
              
Thầy Quỳnh năm nay đã chín mươi tuổi, nhưng vẫn minh mẫn. Mỗi lời nói của thầy như được chắt lọc từ cuộc sống mà thầy đã trải qua gần một  thế kỷ
              
Trong lúc nói chuyện về ngôi mộ bà Trầu, thầy bảo ở làng Vọng có một trường hợp đương đại,  hoàn toàn ngược lại với chuyện bà Trầu. Ở làng ấy, có người tên Lê Đắc, một  cán bộ to nhất nhì tỉnh. Thời hàn vi ông ta được làng xóm cưu mang, nhưng khi làm quan thì độc ác tham lam vô độ. Ông ta   đục khoét, trấn lột dân không trừ cả nơi chôn rau cắt rốn mình. Hàng chục  mẫu  ruộng của bà con làng Vọng, bị ông ta ký quyết định thu hồi, cho Trung Quốc thuê xây dựng nhà máy chế  biến  cao su. Gía bồi thường chỉ có 50.000 đồng một mét vuông. Bà con không nhận tiền, không giao đất vì biết ông ta và đồng bọn cho Trung Quốc thuê, thực tế là bán, giá 500.000 đồng một mét. Ông ta ký lệnh cưỡng chế, cho  công an  bắt giam những  người chống đối lệnh cưỡng chế đó. Gia đình ông ta giàu sang ít người sánh bằng nhờ tiền tham nhũng.
               
 Năm kia ông ta bị ung thư, đưa sang Singapore chữa gần một năm, tốn kém hàng chục tỷ không thoát chết. Lễ tang tổ chức trên tỉnh rất linh đình, nhưng tuyệt nhiên không có người dân làng Vọng nào, ngay cả người trong họ Lê đi viếng.  
               
  Thầy giáo Quỳnh nói với tôi:
                  - Không biết của cải ông ta để lại, con cháu ông có giữ được lâu không, nhưng cái tình của ông với dân làng  thì hết sạch rồi, có chăng chỉ còn bia miệng tiếng đời!
                 
 Tôi thắp nén nhang trong  miếu thờ bà Trầu. Lời thầy Quỳnh vẫn văng vẳng  bên tai tôi:
                  -Thời gian tìm đến cái chết, tình yêu tìm đến linh hồn, vì vậy tình yêu là bất tử. Tình yêu làm  cho người ta đáng sống, hận thù làm cho người ta phải sống và, dù đi đâu ở đâu thì mình cũng là một phần của mảnh đất này !

                                                                                              MINH DIỆN (BVBONG)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tìm thông tin blog