Hình như đa số các nhà văn
đều theo một công lệ đã được vạch sẵn từ bao giờ không biết : là mỗi khi nhắc
nhở đến một bạn đồng nghiệp nào khuất bóng thì hết lời ca ngợi và không quên
nhắc đi nhắc lại là mình có cảm tình hết sức nồng hậu với nhà văn, nhà thơ đó .
Tôi muốn ăn ngay, nói thẳng
hơn một chút. Về NGUYỄN BÍNH, tôi
phải thú thực liền : tôi không có cảm tình với anh ta trong những buổi đầu gặp
gỡ. Tôi nhớ rõ như mới ngày hôm qua : chúng tôi gặp nhau lần đầu vào một ngày mưa dầm, tháng bảy.
Mưa
suốt đêm ngày, tôi ru rú ngồi sửa bài trên một căn gác nhỏ. Thâm Tâm, Trần
Huyền Trân và Ngọc Giao đưa Nguyễn Bính đến thăm tôi , cả ba đều ướt, gặp ngày
mưa lòng mình đã chán chường, lại thấy ba ông bạn đến thăm vào chính lúc mình
không chờ đợi, tôi không thú mấy. Trần Huyền Trân, Ngọc Giao và Thâm Tâm là bạn
quen biết trước, đến bất ngờ như thế không sao, nhưng Nguyễn Bính đối với tôi “nhất kiến vi kiến” tôi cảm thấy hơi khó chịu.
Đã thế, tôi lại
thấy Nguyễn Bính không có cái duyên đối với riêng tôi, ngay từ câu xưng hô đầu
tiên mà tôi cho là lố lỉnh. Bính nói :” Bính còn có vài bài thơ chưa được đăng
đâu, để hôm nào rảnh, gửi anh đăng lên “Tiểu thuyết thứ bảy” hay “Phổ thông bán
nguyệt san” tùy ý ! Lúc đó tôi còn trẻ, tôi hơi khó tính , thấy một người đàn
ông con trai tự xưng tên mình lên với người quen như thế , tôi cho là không
được. Ngay các cô thiếu nữ tự xưng tên mình như thế , tôi cũng đã không
“thương” được rồi. Có lẽ chính tôi lố lỉnh vì có thành kiến về cách xưng hô như
thế, nhưng đó là sự thực tôi cảm giác về Nguyễn Bính .
Sau đó ít lâu,
tôi tìm đọc một vài bài thơ của Nguyễn Bính đăng trên “Hà nội báo” xem ra thế
nào thì tôi vẫn duy trì ý kiến của tôi : không có cảm tình với Bính cả về người
lẫn thơ. Tôi phải thú thực tôi là một người xem thơ không sành. Qua mấy bài thơ
của Nguyễn Bính tôi được đọc, tôi thấy anh làm vè chứ không phải là thơ. Thơ,
theo tôi quan niệm : phải kết tinh ý nghĩ trong ít lời, ít chữ, nhưng những
chữ, những lời ấy mỗi mỗi phải là hình ảnh, đọc lên phải là nhạc gợi lên nhiều
ý nghĩa sâu xa, lắng đọng . Nói một cách khác, tôi chỉ chịu những bài thơ khó
khăn một chút , chớ làm dễ dàng , đọc dễ dàng thì tôi không tán thưởng. Đem ý
kiến nầy ra bàn với Thanh Châu, Ngô Hoan các anh cũng tán thành ý kiến nầy, do
đó tôi lại càng coi thường Nguyễn Bính ……
Cho đến một ngày
kia, dự một cuộc hội thảo về thơ mới, thơ tự do ở “ngoài kia” tôi mới thấy hơi
nao núng về quan niệm thơ của mình và bắt đầu ngờ Nguyễn Bính là một nhà thơ có
tài thật, chớ không phải là một anh soạn vè .
Hôm ấy cuộc hội
thảo gồm nhiều tay tiểu tư sản trong hàng ngũ kêu là “trí thức”. Nguyễn Đình
Thi đưa vấn đề Thơ mới ra hỏi anh em …
vì Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ bênh
vực thơ tự do, thơ mới đến kỳ cùng. Một số lớn anh em nói huỵch toẹt là “không
thể thương được loại thơ kỳ cục đó”. Tôi còn nhớ Phan Khôi lửng khả, lửng khửng
có nói sỗ như sau :”Tôi không có ý kiến khen chê gì hết, nhưng tôi chủ trương
nên đổi tên thơ tự do ra làm : Thơ văn xuôi xuống dòng thì hơn . Một
anh khác nói : Thơ mà không có nhạc, nói lăng nhăng, lít nhít thì gọi là thơ
làm gì cho nhục chữ thơ đi, tôi thấy rằng muốn làm thơ gì cũng được, nhưng phải
ngâm nga mới được, đọc lên một vài lần, tôi phải thấy réo rắc, uyển chuyển và
làm cho tôi nhớ, để khi nào buồn tôi ngâm ngợi cho tôi nghe hay người khác
nghe, thì mới có thể gọi là thơ. Nguyễn Đình Thi uất quá, xin một ý kiến của
ông cụ.
Ông cụ bảo : Thế
tôi hỏi chú câu nầy nhé ! Chú đã nghe thấy ăn mày họ kêu đường chưa ?
Mọi người ngạc
nhiên, không biết ông cụ nói gì. Mãi sau mới biết : Ăn mày muốn lôi kéo người
ta, làm cho người ta rung động, để cho tiền cũng phải làm thơ. Thơ của họ như
thế nầy :” Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại … cho tôi xin đồng tiền, bát gạo … con
cá nó sống nhờ nước, con sống nhờ ơn của ông bà …..”
Chê Nguyễn Bính, người ta vẫn thuộc thơ
Nguyễn Bính.
Cuộc hội thảo hôm
ấy làm cho nhiều anh em buồn cười. Riêng tôi, còn nhớ rất lâu mỗi khi chợt nhớ
đến thơ của Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đình Thi … Ờ ! thơ như thế, có lẽ
không là thơ thực , nhưng là một cái gì kỳ cục lạ thế, sao vè của Nguyễn Bính
lại không thể là thơ được ? Mà thơ của Nguyễn Bính người ta đọc, người ta nhớ,
người ta ngâm sao lại không bảo là thơ hay được ?
Bàn về nghệ thuật
viết tiểu thuyết, ông Hàn Georges Duhamel đã viết :”Ôi chao, viết tiểu thuyết,
ông muốn dùng ngôi thứ 1, ngôi thứ 2, thứ 3 tùy ý, ông viết theo kỹ thuật mới
hay cũ, tùy ý luôn, độc giả chỉ cần có mỗi một điều là tiểu thuyết của ông cám
dỗ tôi, làm cho tôi thích thú, thế là được, ngoài ra họ không cần gì cả, ngay
cả sự ích lợi hay triết lý cao siêu mà ông muốn gói ghém trong tiểu thuyết “.
Có lẽ về thơ cũng
thế. Từ đó để ý thêm một chút nữa, tôi thấy rằng trong các bạn bè tôi, một số
rất đông vẫn chê thơ Nguyễn Bính là vè, là thơ dễ dãi, thơ “rẽ tiền”, tự nhiên
, có hôm không biết lòng nao nao buồn, vì cơn cớ gì buộc miệng ngâm vang thơ
Nguyễn Bính, mà chính vào những lúc ngâm nga như thế thì họ quên khuấy mất họ
là những người chê bai Nguyễn Bính hăng say nhất. Tôi có thể nói rằng sau
truyện Kiều, sau thơ Tản Đà có lẽ thơ Nguyễn Bính được nhiều người tìm đọc và
ngâm nga nhất .
Có cô con gái ở
vườn lên làm công cho người ta, lãnh tiền, lấy việc mua một tập “Lỡ bước sang
ngang” của Nguyễn Bính là công việc “cần phải làm đầu tiên”. Buổi trưa oi bức,
mẹ đưa võng ru con bằng thơ Nguyễn Bính, đi kháng chiến, đeo ba lô đi trong
rừng ngâm thơ Nguyễn Bính luôn. Hai anh chị cán bộ đêm trăng ngồi ngoài sân
thơm ngát mùi hoa bưởi trao tình cho nhau bằng thơ Nguyễn Bính, chị lái đò, cô
hàng xén, bà bán rau cải, cô nữ sinh được ngày nghĩ về thăm nhà bên kia cầu Bến
Lức, mấy ả phong lưu những đêm thiếu bạn
… chẳng vẫn thường ngâm một mình :
Lạ quá làm sao tôi cứ buồn.
Làm sao tôi cứ
khổ luôn luôn.
Làm sao tôi cứ
tương tư mãi.
Người đã cùng tôi
lạt ước nguyền.
Chị từ lỡ
bước sang ngang,
Trời giông bão,
giữa tràng giang lật thuyền.
Xuôi
dòng nước chảy liên miên.
Đưa thân thế chị
đến miền đau thương,
Mười năm
gối hận bên giường.
Mười năm nước mắt, bữa thường
chan canh.
Mười năm
đưa đón một mình.
Đào sâu chôn
chặt mối tình đầu tiên.
Mười năm
lòng lạnh như tiền.
Tim đi hết máu,
cái duyên không về .
Tương tư thức
mấy đêm rồi.
Biết ai cho biết,
ai người biết cho.
Bao giờ bến
mới gặp đò.
Hoa khuê các, bướm
giang hồ gặp nhau ?
Có thể nói rằng
hầu hết các nhà văn, nhà thơ dù chê, dù không ưa Nguyễn Bính, cũng đều nhờ đại
khái mấy câu thơ sau này của Bính, nó làm cho người ta không muốn nhớ mà phải
nhớ, cũng như ta nhớ tục ngữ, ca dao vậy
Nhà em
có một vườn trầu.
Nhà anh có
một hàng cau liên phòng,
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một
người chín nhớ mười trông một người.
Trời mưa ở
Huế sao buồn thế ?
Cứ kéo dài
ra đến mấy ngày.
Xa xôi ai nhớ mà
thương nhớ,
Mà nhớ, mà
thương đến thế nầy !
Gió mưa là bệnh của trời.
Tương tư là bệnh của tôi thương nàng .
Bệnh tương tư của NGUYỄN BÍNH .
Có lúc ngồi suy
nghĩ về thơ Nguyễn Bính, tôi cố tìm hiểu tại sao Nguyễn Bính lại được ưa chuộng
thế. Anh “ăn” vì hai đặc điểm :
1)- Anh đã nói
lên tiếng nói chân thật của lòng với lời lẽ bình thường của dân gian, không cầu
kỳ, không kênh kiệu.
2)- Anh đã nhắm
chung vào cái bệnh của loài người là cái bệnh tương tư : trai gái tương
tư nhau, người dân mất nước tương tư quê hương, người con gái lấy chông tương
tư dòng sông cũ, người đàn ông không được yêu tương tư người yêu lý tưởng,
người bị tình phụ tương tư người đã phụ mình … Có thể nói tất cả văn, thơ thời
tiền chiến của Bính đều nhắm vào BỆNH đó. Sở dĩ được như thế, chính vì anh là
người mắc bệnh đó thật, vì ai đã biết
Nguyễn Bính đều không chối cãi
được điều nầy : bắt gặp ai anh cũng mê, mê người thương mình, mê người
có thể yêu thương được mà luôn cả những người mà mình không có quyền yêu
thương. Yêu quá lố. mê quá xá, rốt cuộc không làm gì được thì tương tư. Người
đàn bà trong “Lỡ bước sang ngang” mà Bính gọi là chị Trúc Đường là một người
anh con chú, con bác với Bính. Trên con đường tản cư về khu Tư với tôi, xác
nhận rằng chính “chị TRÚC” mà Bính nói đó là vợ, tức chị Trúc Đường, nhưng vì
danh giáo không thể yêu như thế, nên Bính tủi hờn sầu khổ mà tạo nên bài thơ
“Lỡ bước sang ngang”.
Có lúc tôi đã hỏi
Trúc Đường :
-Thế Bính có biết
rằng anh biết rõ là Bính yêu chị ấy không ?
Trúc Đường trả
lời tôi :
-
Biết
chứ, chính nó nói thực với tôi là khác. Nhưng tôi mặc kệ, bởi vì cái tính nó si
mê như vậy, ngăn cấm nó có khi nó đi tự tử, mà tôi mặc kệ cũng không phải là
không có cớ, vì tôi biết chắc rằng Bính cũng chỉ tiến tới cái mức mê vớ, mê vẫn
thế thôi.
Câu chuyện mê chị
Trúc chỉ là một điển hình.
Yêu những người
mà đa số người cho là không đáng gởi tình yêu , Bính cũng si mê như thế. Bây
giờ còn có những người bạn giao du với Bính lúc anh dời Bắc vào Nam và từng
chung sống với anh thuật chuyện rằng có hôm Bính dành trọn ngày để làm một cái
khung kính lồng một cái hình của một người kỹ nữ một đêm mà anh quen biết và chính anh cũng biết sẽ không có còn có cơ
hội gặp lại nữa. Rồi làm thơ thương nhớ, tương tư, y thể như bạn gái cố tri, ăn
đời ở kiếp, có khi lại tủi thân khóc một mình hỏi người yêu sao không đến với
mình, để ban cho mình một lời thương, một nụ cười :
Xé bao
nhiêu lụa rồi,
Em không
cười nửa tiếng.
Đốt bao
nhiêu lửa trời.
Em không
cười nửa tiếng.
Bảo là gàn thì
Nguyễn Bính quả là một thi sĩ gàn : đầu thì bù, ăn mặc xốc xa, xốc xếch, đi thì
nhìn lên trời mà nhìn ngang, ăn nói bướng không chịu được, nhưng khó chịu nhất
là bập vào cô nào cũng mê và tưởng tượng người ta cũng yêu anh lắm. Cái mối
tình “Tú Uyên” cũng là một thứ tình vẫn vơ như thế . Nguyên hồi ấy Nguyễn Bính
ở chung gác trọ với Thâm Tâm và Trần Huyền Trân. Cả ba cùng là tay mơ, có tiền
đi hát. Vớ vẩn Bính quen với một cô đầu đội đèn, tên là Ngọ. Thi vị hóa cô ả,
Bính đặt tên là Tú Uyên, bịa là nàng theo đạo Thiên Chúa và làm thơ xin Chúa
cho được lấy nhau :
Lậy Chúa con xin Chúa một giờ.
Mười hai giờ
Ngọ của tình xưa.
Hai đứa con đây
: Uyên và Bính.
Thường hẹn hò
những buổi ban trưa.
. . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Chuông ngọ từng
hồi chuông ngọ đổ.
Từng hồi chuông ngọ đổ chơi
vơi.
Con nghe chuông
đổ rồi con khóc.
Cứu rỗi linh
hồn con ! Chúa ơi !
Theo chỗ biết của
riêng tôi thì chính Thâm Tâm và Trần Huyền Trân đã xếp đặt và thần thánh hóa cô
Ngọ để Bính say mê làm một trò cười, nhưng chính Bính , có lẽ đến lúc chết cũng
vẫn không biết thế và vẫn cứ yêu người đẹp Tú Uyên.
Về cái bệnh tương
tư vơ vẫn của Bính, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã có lần nói lên những ý nghĩ tương
tự tôi vừa nói trên kia. Nhưng dù sao, ta cũng phải nhận rằng chính cái bệnh ấy
đã góp cho phần lớn sự phát triển thi tài của Bính, để giúp cho Bính nói ra
được một khía cạnh của lòng u uẩn muôn đời của con người.
Nhưng mề đay nào
mà chẳng có hai mặt ? Vì cứ yêu vớ vẩn, bạ ai cũng tương tư như thế nên Nguyễn
Bính nhiều phen đã thành ra chính nạn nhân bịnh tương tư của mình. Đó là trường
hợp lúc Bính dời Bắc vào Nam, sống nhờ vào nhà một ông công chức ở Rạch Giá, có
lẽ Bính thực thà tin rằng “mình có trái tim thì không ai có quyền cấm mình yêu,
ngăn mình nhớ … “, nên ông công chức nọ ghen với Bính… Thêm nữa bà vợ ông công
chức cả ngày ru con, rửa chén, rửa đủa
lại cứ ngâm xa xả thơ của Bính, nên ông công chức nọ chịu không được, phải mời
Bính ra khỏi nhà.
Đây là cái đoạn
đời cực khổ nhất của Bính : anh phải ra ở đình Nguyễn Trung Trực, ngủ ở sân
gạch, không có một cái sơ mi lành lặn để mặc, mặc quần cụt, đi guốc lê la ở
Rạch Giá, điếu thuốc không có mà hút, chén cơm nhiều khi không có mà ăn. Tất cả
gia tài của Bính thu vào mấy cuốn sách và một hai cái áo gói vào tấm giấy nhật
trình. Cả tháng không tắm, Bính mỗi buổi sáng thức dậy lại ra một cái cầu tre ở
trước đình Nguyễn Trung Trực vục tay xuống sông rửa mặt và lấy năm đầu ngón tay
làm lược chài đầu.
Đoạn đời nầy, thi
sĩ Kiên Giang hiểu rõ Bính hơn ai hết vì chính anh đã sống với Bính và “cưu
mang” Bính. Chính Kiên Giang đã viết về Bính trong thời kỳ ấy như sau :
“ Sau khi biết
tình cảnh của Bính, tôi bàn cùng Bính nên tìm một nơi nào khác mà ở để còn viết
lách. Cả hai đồng ý thuê một ngôi nhà của ông giữ sân banh Rạch Giá. Ngôi nhà
nầy chỉ hơn được cái nóp một chút thôi, nghĩa là siêu vẹo, tiều tụy như một
ngôi nhà hoang . Người ta phải dùng một cây đòn lớn để chống đỡ hàng cột giữa,
hàng ba, hàng nhì. Chỉ có ba hàng cột mà hàng nào cũng siêu cả thì không hiểu
có nên gọi cái nhà nầy là cái nhà không ? Thôi cứ tạm gọi là Lều
Thơ cũng
được. “
Đặc biệt nhất là
Nguyễn Bính khổ cách mấy cũng không phàn nàn. Hình như anh thành thực quan niệm
rằng cái kiếp nhà thơ là phải nghèo, phải khổ, đó là một định luật không nên
oán thán. Anh chỉ oán lòng người bạc ác, cam đành hưởng thụ vinh hoa phú quý ở
bên cạnh những đồng bào cực khổ, nghèo nàn hoặc những người bạn ngày nào bây
giờ sung sướng đã quên mất người bạn thuở hàn vi, đói rách với nhau :
Từ độ về đây sống rất nghèo.
Bạn bè chỉ
có gió trăng theo.
Những thằng
bất nghĩa xin đừng đến.
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu !
. . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . .
Trọc phú tí
toe bàn thế sự,
Đĩ già tập
tểnh nói văn chương .
Đã coi
đồng bạc to hơn núi.
Còn học đòi
theo thói Mạnh Thường .
. . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . .
Chao ôi, giả
dối, ôi mai mỉa.
Sống chật
phồn hoa, một lũ Mường.
Chị ơi ! tất
cả là vô nghĩa.
Chả nhiễu
điều nào phủ giá gương.
. . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tay trắng
bạn bè đều tránh mặt,
Sa cơ, thân
thích cũng khinh thường,
Sông lạnh,
thấy đâu người gọi gió.
Trăng tà … tìm
mãi kẻ mài gươm .
MÀI GƯƠM vẫn không hết tương tư .
Phân tích Nguyễn
Bính, nhiều người bạn còn sống bây giờ quan niệm Nguyễn Bính chỉ là một người
có tinh thần cách mạng chứ không phải là một người hành động. Tinh thần cách
mạng ấy bắt nguồn từ chổ mới ra đời anh đã thấy cảnh giàu nghèo bất công và
người ta có thể nói rằng cái tinh thần ấy đã bàng bạc trong vở kịch đầu tiên
của anh viết với Yến Lan, một thi sĩ miền Trung, nhan đề là : BÓNG GIAI NHÂN.
Chính Nguyễn Bính
đã trình diễn vở kịch nầy lần đầu tiên ở Hải Phòng cùng với Thâm Tâm, Trần
Huyền Trân và Vũ Hoàng Chương. Trần Huyền Trân thủ vai đạo sĩ, Vũ Hoàng Chương
vai tráng sĩ, còn Nguyễn Bính thủ vai mài gươm trong kịch.
Đến cái người mài
gươm, tượng trưng cho tinh thần cách mạng, Nguyễn Bính vẫn không được cái bệnh
tương tư cổ truyền, thỉnh thoảng trong kịch lại có một “bóng giai nhân” hiện
lên không nói năng gì, nhưng ai cũng biết cái anh mài gươm kia nung nấu chí báo
thù chỉ là vì hình bóng giai nhân đó .
Tôi không hiểu
trong đời sống thực, Nguyễn Bính sau thời kỳ ở Rạch Giá ra bưng theo kháng
chiến là vì lòng yêu nước hay là vì bóng giai nhân nào, nhưng anh em đều nhận
thức rằng : đến giai đoạn nầy thì thơ Nguyễn Bính chuyển hướng.
Không phải chuyển hướng về
từ, nhưng về ý .
Thơ Nguyễn Bính
vẫn dài dòng như cũ, từ vẫn đẹp như cũ, nhưng ý thì khác trước, thay vì những
vần nhớ nhung, than khóc, bắt đầu từ thời kỳ ra bưng kháng chiến chống Pháp năm
1947 – 1948, Nguyễn Bính bắt đầu làm những bài thơ hùng mạnh như : “Xuân vẫn
tha hương”, “Hành phương Nam”, “Đồng Tháp Mười”, nhưng thực ra trong đời sống
thực, Nguyễn Bính không có mấy lúc được vui vẽ, thảnh thơi vì anh không chịu
sống trong khuôn nếp, sống theo qui luật, há chẳng phải Bính vẫn thường nói với
các bạn bè thân ở ngoài bưng rằng : lề lối chỉ đạo văn nghệ ở “ngoài nầy” đã
bóp méo hứng cảm của thi sĩ ?
Sau hiệp định
Geneve, Nguyễn Bính để lại một người vợ miền Nam ở lại Sài gòn trở ra Bắc cùng
với một số cán bộ văn nghệ tập kết, nhưng vốn là người “sống ở trên mây”, “có
nhiều chất thơ hơn người”. Nguyễn Bính vẫn cứ bất mãn như thường. Điển hình cho
lòng bất mãn nầy có người thường đọc lại mấy câu thơ sau đây của Nguyễn Bính
trích trong bài “Tiếng sáo diều” :
Kịp ngày
cải cách quê tôi,
Nỗi oan cha muốn kêu
trời, trời cao .
Đêm dài mờ mịt
trăng sao .
Cánh đồng quê, tiếng
sáo diều bật tăm.
Bụi đầy, miệng sáo nín câm.
Dây treo, chuột cắn,
khung nằm, mối xông .
Trong thời kỳ
nầy, ở đây thỉnh thoảng do nguồn tin nầy, do nguồn tin khác, tôi nghe thấy nói
Nguyễn Bính đau, rồi xuất bản tạp chí “Trăm Hoa”, rồi “tỉnh giấc chiêm bao”
cuộc đời Bính như bèo trôi trên nước phù sa, nhưng tôi không lấy làm ngạc nhiên
quá mức.
Một người như
Bính là một thứ Tản Đà thu nhỏ lại, chỉ để ngồi uống rượu, làm thơ, hút thuốc
lào vặt và nói ngông ngênh, kênh kiệu, tô điểm cho đời thêm đẹp và thỉnh thoảng
lại gẩy lên trong lòng người ta một khúc nhạc đầm ấm, lâm ly thì quả không chê
vào đâu được, nhưng Tản Đà mà làm báo, Nguyễn Bính lại tổ chức “Văn Hóa Cứu
Quốc Rạch Giá” và làm chính trị thì chỉ có thất bại và bất mãn, thêm nữa lại
mất một tên tuổi đã từng tạo được những câu thơ đẹp như là những ca dao ngày
xưa để lại ;
Nhà em có một giàn trầu.
Nhà anh có một
giàn cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông.
Cau thôn Đoài nhớ
giàn không thôn nào ?
Bảo rằng
cách trở đò giang.
Không sang là
chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách trở đầu đình,
Có xa xôi mấy,
mà tình xa xôi !
Thế là tàn
một giấc mơ,
Thế là cả một
bài thơ não nùng,
Tuổi son, má đỏ, môi hồng.
Bước chân về đến
nhà chồng là thôi,
Đêm qua
mưa gió đầy trời,
Trong hồn chị có
một người đi qua .
Thay vì những câu
thơ đẹp nõn nà như thế mà lại đi sáng tạo những câu thơ tuyên truyền như :
Chim kia
có cánh thì bay,
Con ơi ! có
nước thì mày phải thương .
Thà rằng chết ở chiến trường,
Còn hơn chết
ở trên giường thê nhi.
Hỡi ai
dòng giống Lạc Hồng,
Hãy hy sinh
hết cho nòi giống ta,
Hãy
nên vì nước , quên nhà.
Coi thường
thân sống, mới là trượng phu.
Lang thang tìm
một hướng đi, Nguyễn Bính thất vọng lại trở về thất vọng, rút lại đến những
ngày cuối cùng anh lại trở lại làm người thi sĩ của thời tiền kháng chiến và
lại tương tư, rồi cứ tương tư như thế cho đến chết :
Trông vời
viễn núi xa xanh,
Tưởng trông rõ
mái nhà mình phương Nam .
Tưởng chừng người vợ tào
khang,
Đương nhìn lên
thấy sao nàng nhớ anh.
Trong mơ
con bú chưa rồi.
Lưỡi con đưa đẩy,
đôi môi còn thèm.
Giật mình con bỗng
thét lên,
Hai tay chới với
quơ tìm mẹ đâu !
Biết bao tâm sự, mấy chờ mong.
Bến cũ, đò xưa chuyện thủy chung .(1)
Một cuộc đời rút lại còn mấy tập thơ .
Lúc Nguyễn Bính
mất đi, có người thương xót anh, bàn rằng anh là một người “ra tê”, một người
không may trên đường văn nghiệp, vì “cái mới đến rồi nhưng chưa ở lại hẳn, còn
cái cũ vẫn còn ở lại, chưa chịu dứt ra mà đi, hơn thế Bính chưa thấy hết cái
bản chất cách mạng của cái mới cho nên ông không đủ lửa thật cháy để truyền vào
thơ ông “
Suy luận về đời
thơ Nguyễn Bính như thế cũng có phần nào đúng, nhưng đứng hẳn về phương diện
văn nghệ thuần túy thật quả là tội cho Nguyễn Bính. Cả một đời không được hưởng
thụ một chút gì, chỉ lang thang, vất vưởng đi tìm một lối đi như một người mù
rồi đến chung cục thì lầm, quay lại với cái tôi của chính mình thì đã muộn.
Phải chi Nguyễn Bính biết được cái mạnh và cái yếu của mình, giữ lấy cái mạnh
và không chạy theo cái yếu thì đời thơ của Bính chắc còn phong phú hơn nhiều ,
chớ đâu cả một đời vất vả lao đao chỉ thu vào có chừng ngót một trăm bài thơ in
thành vài tập mỏng , một vở kịch và một truyện dài không quá 80 trang in ?
Nói như thế không
phải là trách cứ, nhưng đó là cả một sự xót xa. Nguyễn Bính một thi sĩ bình dân
nhất, có nhiều thơ được truyền tụng nhất, nhưng chung thân không may mắn một
lúc nào. Bây giờ các cô nội trợ, các bà, các sinh viên, nữ sinh, các anh em
chiến sĩ ngâm thơ thép súng, nhưng khi buồn vẫn hát bài thơ phổ nhạc “Cô lái
đò” của Bính, có lúc nào sực nhớ rằng
người đã giúp cho bạn ngâm những câu thích thú cho lòng, người đã vì nợ áo cơm
phải trả đến hình hài đó, chỉ là một thứ Francois Villon sa đâu là nhà , ngã
đâu là giường, chỉ ao ước có một tình yêu thành thực mà không bao giờ có, không
bao giờ được ? không ai thèm ban cho ?
Ở chòi hẹp, nhưng hồn trùm vũ trụ.
Trái tim đau
nhưng thương cả loài người.
. . . . . Mắt
quần lại, đêm đêm ròng rã thức.
Da xanh xao vì
muỗi thật nhiều.
Nầy của
riêng, soát lại có bao nhiêu.
Chiếc
khăn tắm, bộ áo quần trong nóp.
Ba năm
rồi chưa xỏ chân vào guốc,
Ăn cơm
thiu vì ẩm ướt mưa đêm.
Có phải vì thế,
muốn làm thơ kháng chiến đến chừng nào, Nguyễn Bính vẫn không thể bật lên mà
cho đến bây giờ, người ta còn thương Nguyễn Bính, yêu thơ Nguyễn Bính chỉ là
những câu thơ chứa chất một tấm lòng tương tư não nùng, lê thê có từ ngày xưa
và sẽ còn tồn tại mãi đến ngàn sau .
Trăm năm đã lỡ
hẹn hò,
Cây đa bến cũ, con đò còn không ?
Tình cờ gặp
giữa phố Đông.
Em đi ríu rít, tay
chồng, tay con.
Nét cười âu
yếm, môi son.
Áo bay nhắc buổi
trăng tròn sánh vai.
Chín năm
bão tối mưa ngày.
Nước non để có hôm
nay sáng trời.
Em đi
hạnh phúc hồng tươi,
Anh nhìn tận mắt
cuộc đời đẹp thay !
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . .
Anh về
viết lại thơ anh.
Để cho bến mắt cây
xanh đôi bờ,
Cho sông, cho nước tự
giờ,
Chẳng còn lỡ
chuyện con đò sang ngang (2)
Sài gòn
tháng Bẩy 1969 VŨ BẰNG
(1)
Mấy
câu thơ nầy trích tập “Đêm sao sáng” của Nguyễn Bính do “Văn Học” xuất bản ở Hà
Nội năm 1963. Ba năm sau khi xuất bản tập thơ nầy Nguyễn Bính mất ở Hà Nội
(20-01-1966).
(2)
“Tỉnh
giấc chiêm bao” đăng trong báo Trăm Hoa xuất bản tại Hà Nội ngày 09-12-1956.
Trích
tạp chí “ VĂN ‘ số 189 xuất bản tại
Sài gòn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét