Người Đô Thị - Nằm trên một ngọn đồi nhỏ, bao quanh là
rừng cây với những bông hoa trắng rung nhè nhẹ như bài hát không lời ru giấc
muôn đời, mộ phần của bác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) nằm cách không xa Hòn
Bà, nơi làm việc của ông từ 1903.
Kể từ 1858,
khi người Pháp đặt bước chân đầu tiên vào Việt Nam, lịch sử của người Việt đã
có thêm một giai đoạn khác thường: giai đoạn thực dân với muôn vàn chuyện kể
đau thương cũng như mới mẻ. Và trong tất cả những câu chuyện về sự có mặt của
người Pháp thực dân ấy, có lẽ câu chuyện về bác sĩ Yersin là phần đầy những cảm
hứng mà bất cứ người Việt Nam nào khi kể lại, cũng đều mang một tâm trạng khó
tả.
Chuyện kể
về người bác sĩ vĩ đại đó, đã làm dịu lại sự tức giận của một dân tộc tổn
thương vì bị xâm chiếm trong các trang sách sử. Dù là nhà thám hiểm, nhà khoa
học của cả Đông Dương, cuối cùng ông Yersin đã chọn Việt Nam, con người Việt
Nam làm nơi cống hiến cho đến hơi thở cuối cùng. Giúp cho dân bản xứ chữa các
loại bệnh nhiệt đới, ông còn là người giúp xây dựng các phương thức canh nông
và sinh hoạt tiên tiến. Dân chúng kính ngưỡng ông như là một vị Bồ tát, xây cả
miếu thờ theo kiểu phương Đông, bất chấp họ nhìn thấy ông mỗi ngày cầu nguyện
theo tín ngưỡng Tin Lành.
Sách xưa
ghi lại năm 1890, ông Yersin tìm cách thám hiểm mở đường bộ từ thượng nguồn
sông Đồng Nai về Sài Gòn cho người An Nam. Người dẫn đường cho ông khi đến Di
Linh đã bỏ cuộc vì thấy quá nguy hiểm, nhưng ông Yersin vẫn lập kế hoạch đi
tiếp. Có điều gì đó như một sứ mạng bí ẩn khiến người bác sĩ tài năng này từ bỏ
rất nhiều cơ hội, tiền tài, danh vọng... để dành tình yêu cho người Việt. Ngay
cả khi ông mất, ước nguyện của ông là được chôn úp mặt vào đất, như muốn ôm giữ
cả nơi chốn đó.
Hóa ra, ký
ức và di sản để lại của những người trong giai đoạn thực dân không nhỏ. Nó
không chỉ có mỗi chuyện chiến tranh, cưỡng đoạt... mà còn là một phần của sức
sống Việt Nam, là một phần trang ghi chép vô giá cho đời sau.
Không chỉ
có Alexandre Yersin, mà Huế - Sài Gòn - Hà Nội... bất kỳ nơi đâu khi chế độ
thực dân đến và lấy đi, họ vẫn để lại những điều đáng nhớ. Tòa Bưu điện Sài
Gòn, Vương Cung Thánh đường hay Thảo Cầm Viên... cuộc sống được dựng lên chậm
rãi và ân cần cho con người chứ không phải hoàn toàn phục vụ riêng cho một chế
độ. Tháng 4.1861, khi đến Sài Gòn, đô đốc người Pháp Charmar đã lên kế hoạch
xây dựng một thành phố tương lai phát triển của nửa triệu người, dù lúc đó, dân
cư ở vùng đất này chỉ khoảng 70.000.
Thật đáng
ngạc nhiên khi những người thực dân ấy, đến một vùng đất xa lạ và cộng sinh
cùng một dân tộc xa lạ, họ vẫn nhìn về phía tương lai, xây dựng và tổ chức cho
mai sau - dù có thể họ không còn cơ hội được nhìn thấy. Quả là khác với không
ít quan chức hôm nay, vẫn hành động như nước Việt - dân Việt chỉ tồn tại trong
nhiệm kỳ của họ. Loại suy nghĩ rất ngắn và nông cạn mà chính Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng từng phải thở dài, thốt lên tên gọi bí ẩn, có tên “tư duy nhiệm kỳ”,
trước Quốc hội.
Dù nhìn xa,
nhưng có lẽ Thống sứ Paul Bert không thể ngờ rằng trăm năm sau, vườn Jardin de la
Ville, hay thường dân còn gọi là vườn Préau lại trở thành lá phổi của Sài Gòn,
và là mảng xanh kỳ diệu ngay trung tâm đô thị. Và chắc ông cũng không nhìn đủ
xa rằng chính người bản xứ lại tự mình hủy diệt điều quý báu đó, đổi lại bằng
một trạm xe và một bãi giữ xe ngầm.
Mới đây,
ngôi biệt thự cổ trên trăm tuổi 2.900m2 nằm trên đường Võ Văn Tần, quận 3 vừa
được bán đi với giá 35 triệu USD. Nghe cái giá mà nhiều người giật mình. Bởi
giá tiền đôi khi là phương pháp hữu hiệu cuối cùng để có thể thức tỉnh được
nhiều người về ý nghĩa của thời gian và lịch sử, dù mỉa mai biết mấy.
Rất nhiều
thứ ở thành phố được phá bỏ, bán đi... không phải chỉ vì tiền, mà vì sự kiêu
ngạo hoặc tàn bạo. Hoàng đế nhà Tần đốt hàng trăm loại triết học và lý luận,
hủy diệt những mầm mống văn hóa tự do của Trung Hoa không vì điều gì cả, ngoài
sự kiêu ngạo và hung ác. Dù được biện luận che chở, vẫn có không ít người tự
hỏi sự hủy diệt đó dùng để làm gì trên đất nước mình. Giống như nhiều người dân
thành phố vẫn chưa hiểu được hết vì sao phải hạ hết những hàng cây cao xanh đã
sống qua thế kỷ, rồi thay bằng một quảng trường nắng chát, cũng như ngập lụt vì
không có chỗ thoát nước chỉ qua một trận mưa.
Nếu không
có ý kiến của các đại sứ quán, đặc biệt là đại sứ quán Phần Lan, có lẽ giờ đây
thương xá Tax đã là đống gạch vụn. Giữa những ồn ào hoảng kinh của dân chúng
kêu la vì thấy di sản của Sài Gòn đang chuẩn bị vào nhà máy nghiền mà dường như
chẳng ai buồn đoái hoài, mãi đến khi đám đông ngoại quốc lên tiếng, đặc biệt là
những quốc gia từng là thực dân một thời, thì di sản lịch sử 130 năm tuổi của
Việt Nam mới được giữ lại.
Khi những
di sản thực dân đáng yêu đó mỗi ngày càng co cụm, càng ít đi, chúng ta vẫn còn
nợ một lời cám ơn với những con người thực dân ân cần đó. Họ để lại cho người
Việt bài học về cái đẹp và sự chu toàn nhưng phai tàn bởi những đổi thay kiêu
ngạo và không biết tiếc nuối.
Một đất
nước không biết tiếc nuối, liệu có còn đủ sức mơ tới tương lai.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét