Giờ đã là giữa tháng 4/2010, sắp đến ngày tròn 35 năm
đất nước thống nhất từ đỉnh cổng trời Hà Giang đến đất mũi Cà Mau. Cái giá phải
trả cho sự kiện này không nhỏ: 1,1 triệu liệt sĩ, trong đó 500 ngàn người có mộ
được quy tập đủ danh tính, 300 ngàn người phải chịu nằm dưới mộ vô danh và 300
ngàn người vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Ở phía bên kia cuộc chiến, các con số
tương đồng cũng đâu có thua kém và họ cũng là con dân nước Việt cả thôi! Là
người viết văn, nhưng có thói quen điều tra xã hội học, ghi chép lại làm lưng
vốn cho ngòi bút của mình nên trong đầu tôi miên man ám ảnh bởi những con số,
trôi ra thành câu chữ trăn trở trên mặt giấy giữa tháng tư lịch sử này…
Ba mươi lăm năm sau cuộc chiến, nếu tôi chen số
”0” vào giữa sẽ là 305 ngàn ha rừng đầu nguồn ở 10 tỉnh biên giới đã được mấy
ông quan đầu tỉnh tùy tiện cho nước ngoài thuê 50 năm mà giá thuê 1m2/năm chỉ
đủ mua vài cọng rau muống thôi ư? Điều đáng để tôi trăn trở âu lo là trong đó
có 240 ngàn ha rừng được cho các chủ doanh nghiệp nói tiếng Hoa, quốc tịch
Trung Quốc, Đài loan, Malaysia “thuê đất trồng rừng” ở những vùng biên giới
nhạy cảm! Tôi đã thử điều tra một dự án của họ ở mấy xã thuộc huyện Tràng Định-
Lạng Sơn, chợt giật mình vì hình như nếu tôi không nhớ lầm thì gần 40 năm trước
mình đã từng thăm dò quặng bauxite bằng phương pháp địa vật lý. Hay như một dự
án trồng rừng khác ở Hà Giang, tôi ngờ rằng trong phạm vi mấy xã đó có những
điểm triển vọng vàng sa khoáng. Nói đến rừng đầu nguồn, tôi lại liên tưởng đến
vấn nạn xuất hiện tràn lan, vô tổ chức các công trình thủy điện vừa và nhỏ,
không chỉ dẫn đến nguy cơ tàn phá rừng, hủy hoại môi sinh, xả lũ vô tội vạ ở
Quảng Nam, Quảng Ngãi năm ngoái mà còn chiếm mất diện tích canh tác tốt nhất
của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc. Điều tra quanh thị trấn du lịch,
nghỉ dưỡng Sa Pa, trong bán kính 30 km có tới 17 dự án thủy điện nhỏ? Ai cũng
biết, địa điểm thiết kế lòng hồ thủy điện nhỏ lý tưởng là thung lũng giữa núi,
đó cũng là nơi có ruộng trồng lúa vốn rất hiếm hoi của người Dao, Mông, Thái,
Tày, Nùng…ở Tây bắc, Việt Bắc. Họ mất rừng, mất ruộng nên lũ lượt tha hương làm
dân di cư tự do vào các tỉnh Tây Nguyên, bỗng chốc họ từ nạn nhân trở thành thủ
phạm phá rừng vì buộc phải đốt rẫy làm nương ở nơi đất mới. Cái vòng luẩn quẩn
phá rừng kia bao giờ chấm dứt? Câu hỏi này tôi đã từng đặt ra trong lọat 5 bài
viết về Tam Nông trên báo Văn Nghệ Trẻ, nhân hội nghị Trung ương 7, khóa X họp
vào giữa năm 2007, vẫn rơi vào im lặng.
Tháng tư năm nay cũng vừa tròn 45 năm chiến
thắng Hàm Rồng (3/4/1965- 3/4/2010). Không ai có thể phủ nhận đây là chiến
thắng vĩ đại, oanh liệt nhất trong năm đầu tiên của cuộc chiến tranh đất đối
không vô cùng ác liệt. Chỉ trong 2 ngày, trung đoàn pháo binh 228 đã cùng dân
quân các làng Yên Vực, Nam Ngạn, Đông Sơn đã kiên cường bám trụ, bắn hạ 87 máy
bay phản lực Mỹ, giữ được cây cầu Hàm Rồng nguyên vẹn. Tôi đã 2 lần đi làm phim
về trận đánh này (2005 và 2010) nên hiểu rõ mất mát hy sinh ở đây suốt những
năm chiến tranh cũng rất lớn. Trên diện tích khoảng 1 cây số vuông quanh của
khu vực Hàm Rồng, người Mỹ đã trút xuống 20 vạn tấn bom, 8.000 người đã chết,
13.000 người bị thương vong. Những con số ám ảnh tâm thức, xui khiến tôi năm
2005 đã cất công đi tìm nhân chứng lịch sử- ông Nguyễn Văn Bê, một trong số
13.000 người bị thương bên cây cầu Hàm Rồng. Ông Bê quê ở xã Nga Lĩnh, huyện
Nga Sơn, nhưng vào lúc tôi đi tìm, ông đang cuốc đất thuê cho chủ trang trại
trồng dứa ở ngoại vi thị xã Bỉm Sơn. Ông bị thương trong trận đánh ngày
3/4/1965. Một mảnh bom đã găm qua mũ sắt, chui vào đỉnh đầu, đến nay chỗ bị
thương vẫn còn phập phồng mảng da đầu. Sau khi ra viện, xuất ngũ vài năm thì
vết thương trên đầu mới tái phát, biến ông Bê thành người ngu ngơ, biết gì về
các thủ tục vốn đã khá phiền phức để hưởng tiêu chuẩn thương binh. Tính đến
thời điểm 2005 là vừa tròn 40 năm ông không hề được hưởng tiền trợ cấp. Trớ
trêu ở chỗ chiếc mũ sắt có vết thủng trên đỉnh đầu của ông lại cũng được người
ta đem trưng bày ở nhà Bảo tàng cách mạng tỉnh Thanh suốt 40 năm ấy, còn người
thủng đầu, nghe thiên hạ đồn: “Ông muốn có sổ trợ cấp phải làm thủ tục “đầu
tiên”, không có thì nghỉ cho khỏe!” Chẳng biết 5 năm qua, sau lần gặp tôi, ông
sống ra sao, đã được cấp sổ hay chết rồi vẫn còn ôm mối hận? Ngẫu nhiên tháng
tư dương lịch hàng năm thường trùng hợp với dịp tết “Hàn thực” vào mồng 3 tháng
3 âm lịch. Người ta ăn đồ nguội như bánh trôi, bánh chay làm từ đêm trước để
ngày tết không phải dùng đến ngọn lửa oan nghiệt từng thiêu đốt mẹ con Giới Tử
Thôi thời chiến quốc. Trùng Nhĩ sau khi lên ngôi vua đã vô ơn, bạc đãi và hắt
hủi các công thần khiến ông phải cõng mẹ trốn vào rừng ở ẩn. Vua sai người gọi
không được bèn nghe lời nịnh thần, cho đốt rừng tất ông phải ra, nhưng ông cùng
mẹ thà chết cháy chứ không chịu quay về nhìn mặt lũ bất nhân. Bởi thế, tết “Hàn
thực” năm nay, ăn đĩa bánh trôi tôi lại nhớ tích xưa, ngậm ngùi thương ông
Nguyễn Văn Bê, miên man suy ngẫm sự đời những năm hậu chiến.
Có những con số người vô tâm thoạt nghe thấy
dửng dưng, nhưng tôi thì không thể. Tài liệu thống kê gần đây cho tôi biết, 35
năm sau cuộc chiến, Việt Nam ta có: 3,2 triệu người định cư ở gần 100 quốc gia
và vùng lãnh thổ; 500.000 người đi làm thuê ở 40 quốc gia; 250.000 người đi lấy
chồng nước ngoài, chủ yếu ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia; 30.000 du
học sinh ở châu Âu, châu Úc và Bắc Mỹ… Trong số 3,2 triệu người Việt định cư ở
hải ngoại hiện nay, số ra đi trước ngày 30/4/1975, kể cả số di cư từ thời thuộc
Pháp chỉ khoảng 1 triệu, số còn lại hơn 2 triệu người chủ yếu rời bỏ đất nước
từ nửa cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 của thế kỷ trước. Thế hệ chúng tôi
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sao
những người được chúng tôi giải phóng lại ào ào bỏ nước mà đi đông đến vậy? Đất
nước qua 24 năm đổi mới, ta vẫn tự hào về tốc độ tăng trưởng ngọan mục trong 12
năm liền (1996- 2007). Thế nhưng chất lượng tăng trưởng thì sao? Cánh kéo phân
hóa giàu nghèo giãn ra tới mức chỉ một nhúm người đi xe triệu đô, cưỡi máy bay
riêng, ngủ biệt thự sang trọng, trong khi có nửa triệu người đi làm thuê kiếm sống
ở xứ người và 250 ngàn cô gái hơ hớ tuổi xuân phải lấy chồng ngoại để có tiền
cứu đói hay trả nợ cho gia đình. Trong cộng đồng 3,2 triệu người Việt hải
ngoại, tôi biết có khoảng 300 ngàn chuyên gia cấp đại học và trên đại học, phần
lớn đều tha thiết mong có cơ hội phụng sự Tổ quốc. Đó là nguồn nhân lực tuyệt
vời cho công cuộc phát triển, sao các nhà quản lý trong nước lại ghẻ lạnh, hờ
hững với họ? Tôi có thời gian làm Thư ký tòa sọan cho tạp chí Thế giới vi tính
(PC World VN), một tạp chí hàng đầu về CNTT nên hiểu khá rõ nội tình vụ việc
ông Trương Trọng Thi- người Pháp gốc Việt, nhà phát minh thuộc tốp tiên phong
của thế giới về máy tính cá nhân và công nghệ vi xử lý, ngay từ năm 1973 đã có
nguyện vọng hợp tác đầu tư với Nhà nước ta về lĩnh vực này và bị ghẻ lạnh ra
sao. Cố GS Trần Lưu Chương sinh thời có lần tâm sự với tôi: “Hãy tưởng tượng ở
thời điểm năm 1973, lúc châu Á và cả thế giới còn đang ở buổi bình minh của
cuộc cách mạng tin học, nếu ta ủng hộ Trương Trọng Thi lập xưởng chế tạo PC và
tổ chức nghiên cứu công nghệ vi xử lý thì Ấn Độ và Trung Quốc chỉ có nước chạy
theo bái ta làm sư phụ, chứ đâu như bây giờ ta thua họ 10 năm phát triển công
nghiệp phần cứng và gia công phần mềm xuất khẩu.” Lại nữa, con số 30,000 du học
sinh, nghiên cứu sinh Việt Nam đang ở Tây Âu và Bắc Mỹ là nguồn chất xám trẻ vô
cùng quý giá, sao 70- 80% trong số họ không muốn về nước, đâu chỉ vì đãi ngộ
thấp mà còn vì điều kiện làm việc, cơ hội thăng tiến bị cơ chế dị mọ trong nước
kìm hãm?...
Có tiếng gà gáy sáng cất lên thao thiết, chơi
vơi, lạ hóa giữa không gian khu đô thị mới, chất ngất các tòa nhà chung cư cao
tầng. Ông lão hàng xóm cùng tầng 11 của tôi bảo, ông nuôi chú gà tre Nam Bộ làm
cảnh, cho nguôi nỗi nhớ làng quê Đông Anh bị giải tỏa làm sân “gôn”, bứng ông
cùng bà lão răng đen, vấn khăn mỏ quạ ra nhập hàng ngũ cư dân đô thị mới. Tiếng
gà làm tôi liên tưởng đến buổi tọa đàm “Kê minh thập sách- minh triết trị quốc
an dân” tại Hội trường tầng 3, nhà số 53 Nguyễn Du- Hà Nội vừa diễn ra hôm
15/4/2010. Hơn 600 năm trước, bà Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu đã
dâng lên vua Trần Duệ Tông bản “Kê minh thập sách” gồm 10 điều phản biện và
kiến nghị, hòng cứu đất nước ra khỏi khủng hoảng toàn diện về chính trị, quân
sự, kinh tế. Mỗi lời của bà tới nay vẫn còn tươi rói màu xanh của cuộc sống,
thiết thực với hiện tình đất nước, ngỡ như ta đang đọc một bản góp ý cho văn
kiện Đại hội đảng CSVN lần thứ XI, ví dụ:
“…Ba, ngăn chặn lũ lộng quyền để phòng chính sự sâu
mọt.
Bốn, thải loại bọn tham nhũng để trừ tệ đục khóet của
dân.
Năm, xin chấn hưng văn hóa giáo dục khiến ánh đuốc rực
cùng mặt trời chiếu khắp.
Sáu, xin cầu lời nói thẳng để cho cổng thành cùng
đường ngôn luận rộng mở…”
Tôi nhớ, trong buổi tọa đàm đó, khi anh GS Chu Hảo mời
tôi lên phát biểu, tôi đã uống thuốc liều nêu ra hai ý hỏi lại các cử tọa cũng
là hỏi chính lòng mình:
Một là bản “Kê minh thập sách” có 6 điều thuộc về minh
triết trị quốc an dân ngắn gọn, khúc triết và 4 điều thuộc về binh pháp, đọc
lên ngỡ như binh pháp Tôn Tử hay Binh thư yếu lược của Hưng Đạo đại vương vậy.
Bà Nguyễn Thị Bích Châu chỉ là cung phi, mồ côi từ nhỏ, vào cung tự học mà tỏa
sáng nên chăng coi đây là sự cô đúc trí tuệ của nhiều bậc thức giả dân gian vào
trong văn bản lưu truyền cho hậu thế, thông qua sự phát ngôn của nhân vật lịch
sử đã hóa thánh trong lòng dân ở các đền thờ miền quê Nghệ Tĩnh?
Hai là, phải chăng “Kê minh thập sách” tập hợp ý
nguyện của dân chúng mà ra đời từ hệ quả tất yếu sau mấy chục năm chính sự suy
đồi, vua tôi sa đọa? Thực tế lịch sử cho thấy nhà Trần sau hơn nửa thế kỷ lừng
lẫy và 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đến năm 1314 bắt đầu trượt dài trong
sa đọa với sự lên ngôi của vua Trần Minh Tông. Ông vua này là con thứ, được vua
cha cưng chiều đưa lên ngôi lúc mới 14 tuổi (SN 1300), chỉ ham ăn chơi, trác táng
trong sự dung túng của thượng hoàng và sự o bế của lũ nịnh thần. Đến năm 1329,
đang còn sung sức ở tuổi 29 Minh Tông đã vội lẩn tránh quốc sự, nhường ngôi cho
vua Trần Hiến Tông mới lên 10 tuổi (SN 1319) để mình làm Thượng hoàng. Năm
1341, Hiến Tông chết lúc 22 tuổi, chưa kịp có con nên con thứ 10 của Minh Tông
mới lên 5 tuổi (SN 1336) lên làm vua, hiệu là Trần Dụ Tông. Như vậy, từ năm
1314 đến 1369 là 55 năm triều đình mục nát, chính sự nhố nhăng như phường chèo
nên năm 1369 một gã lưu manh Dương Nhật Lễ, con anh hề chèo gốc Hoa trong cung
là Dương Khương cũng có thể cướp ngôi làm vua được 2 năm (1369- 1370). “Kê minh
thập sách” dâng lên vua Trần Duệ Tông (1372- 1377), không được vua tiếp nhận
nên năm 1400, nhà Trần mới mất về tay nhà Hồ, rồi cuối cùng nước cũng mất về
tay giặc Minh ở phương Bắc.
Phải chăng khi một chính thể kéo dài sự mục nát suốt
mấy chục năm, quyền bính lọt vào tay lũ lưu manh hạ đẳng, chính sự nhố nhăng
như phường chèo, lại khước từ minh triết Việt trong “Kê minh thập sách” thì họa
diệt vong là tất yếu?
Bài học lịch sử “Kê minh thập sách” cuối thời nhà
Trần, nay nhân ngày giỗ thứ 633 bà Chính thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu,
tôi bồi hồi ngẫm lại vẫn thấy còn nguyên giá trị giữa bầu trời thủ đô tháng tư
năm 2010…
Hà Nội 18/4/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét