9 thg 4, 2013

Truyện ngắn SỐ PHẬN HAI NGƯỜI LÍNH Minh Diện


Anh Nghĩa vê điếu thuốc lào to bằng hạt ngô cho vào nõ điếu, châm lửa,  hóp má hít một hơi dài. Anh xòe tay vỗ đánh bộp vào miệng điếu cho bã thuốc bắn ra, rồi hit tiếp. Chiếc điếu cày rít lên những tiếng sòng sọc, lại có pha tiếng như thổi sáo. Người ta nói đó là loại điếu cày của người hút sành điệu. Nghĩa từ từ nhả làn khói xanh mù mịt, đầu  lắc lư,  mắt lim dim  nhìn bóng hàng cau dưới sân.
             Mỗi lần hút một điếu thuốc lào, Nghĩa lại lâng lâng như thế. Anh nói vui,  bỏ vợ được chứ thuốc lào cóc bỏ được! Nghĩa chép miệng, rồi lắc lư: Nhớ ai như nhớ thuốc lào / Đã chôn diếu xuống lại đào điếu lên…
             Tôi hỏi:
             - Ở Mỹ cả tháng có nhớ thuốc lào không?
             - Nhớ  muốn chết !
             - Thế xử lý thế nào?
              Nghĩa thật thà:
             - Thỉnh thoảng trốn vào  toa-lét, lấy giấy cuộn hút  một điếu . Nhạt thếch nhưng cũng  đỡ thèm!
            - Nghe nói nếu không nhớ thuốc lào ông  ở Mỹ luôn?
            - Bậy nào!
             Nghĩa hút thêm một điếu thuốc lào, uống  chén  nước chè xanh và cười phô hàm răng  trắng bóng. Mấy tháng trước Nghĩa chỉ còn vài cái răng, miệng móm như ông lão. Giờ hai hàm răng  đều tăm tắp. Người ta nói cái răng cái tóc là góc con người quả không sai! Khuôn mặt Nghĩa vẫn gồ ghề đen đúa, nhưng có hàm răng mới, không móm như trước  nhìn vuông vức, như trẻ ra mấy chục tuổi. Đồ giả thường đẹp.
              Bốn mươi tám năm trước, Nghĩa với tôi lên đường nhập ngũ. Bấy giờ hai đứa vừa bước vào tuổi 18. Tuy bằng tuổi nhau nhưng Nghĩa cao lớn  hơn tôi nhiều. Nghĩa chỉ học hết cấp hai, rồi đi làm thợ xẻ trên miền ngược, cơ bắp phát triển, còn tôi mài đũng quần hết cấp ba, lười vận động người mảnh như thanh tre bổ đôi. Hôm tiễn chúng tôi ở sân đình,  mẹ tôi cứ nắm áo Nghĩa, dặn đi dặn lại : “ Thím gửi em cho cháu đấy  Nghĩa nhá!”.  Nghĩa hứa: “ Thím yên tâm, chúng cháu sống chết có nhau!”.
               Nhưng hai đứa chỉ ở với nhau  đúng  ba ngày. Vừa lên  đến Tam Nông, Phú Thọ,  Nghĩa to khỏe, nhanh nhẹn, được chọn vào đặc công, niềm tự hào của tuổi trẻ ngày ấy,  tôi nhỏ bé phải  ở lại đơn vị công binh.  Hai đứa buồn bã chia tay nhau trong  khu rừng cọ  giữa buổi chiều mưa sùi sụt. Tử hôm ấy, chiến tranh cuốn chúng tôi đi  mỗi đứa một ngả, quên cả năm tháng, chẳng biết sống chết thế nào!
                Ngày Sài Gòn giải phóng, tôi về phép lần đầu sau mười năm xa quê, ghé qua nhà Nghĩa. Ngôi nhà năm gian rui mè khang trang của gia đình Nghĩa trước kia, giờ đã biến thành  là nhà trẻ.  Bầy trẻ con rứu rít quanh cô giáo Thảo. Tôi hỏi thăm, Thảo nói:
                 - Anh Nghĩa  đi kinh tế mới rồi anh ạ!
                 - Ở đâu em?
                 - Em không biết anh ạ!
                 Mấy năm sau, mỗi lần về quê, tôi lại hỏi thăm  Nghĩa,  nhưng  bặt vô âm tín. Tôi  tưởng chả bao  gặp lại người bạn cùng xóm nữa,  không ngờ lần này về quê lại gặp Nghĩa. Nghĩa nói với tôi, giọng rưng rưng:
                - Tôi nhập ngũ với ông  1965, năm  1973 tôi  ra quân, về quê được gần một năm thì  đi kinh tế mới. Đi biệt từ ngày ấy, gần bốn chục năm rồi,  bây giờ mới quay về , nhìn quê hương vừa quen vừa lạ, bọn trẻ không biết mình là ai, buồn quá!
                Tôi nắm bàn tay khô gầy của Nghĩa, nhìn khuôn mặt gồ ghề chất phác, đôi mắt ngây ngây khi anh say thuốc lào,cảm thấy ngậm ngùi đồng cảm, bỗng nhớ một bài thơ Đường, liền đọc và dịch cho anh nghe:
                             Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi
                             Hương âm vô cải mấn mao tồi
                             Nhi đồng tương kiến bất tương thức
                             Tiếu vấn khách tòng hà sứ lai!
                              (Lúc trẻ xa nhà già trở lại
                             Giọng nói chưa quên tóc, râu phai
                             Trẻ con nhìn mặt không quen biết
                              Cười hỏi lão từ đâu tới đây?)
                            Nghĩa   nhẩm đọc lại, cười chua chát:
                            - Số phận chúng ta khốn nạn quá!
                            Chúng tôi ngồi trên chiếc chõng tre kê giữa sân nhả trẻ, ngôi nhà vốn dĩ của cha mẹ Nghĩa. Cái sân gạch xây bằng gạch lục, gắn hèm, từ đầu năm sáu mươi thế kỷ trước,  qua bao tháng năm đã vẹt mòn, in bóng hàng cau già. Tôi bỗng nhớ những đêm trục lúa , tiếng trục đá kêu cót két lẫn tiếng cười, tiếng điếu cày rít  sòng sọc,  mùi rơm tươi thơm ngái nồng nàn. Ngày ấy xa lắm rồi, không bao giờ quay lại nữa. Nhưng còn sống ngày nào chúng tôi còn nhớ, nhớ da diết, nhớ cháy lòng ! Đó là những ngày tháng tươi đẹp, trước khi chúng tôi làm người lính, dấn thân vào một cuộc chiến tranh, mà lúc đó chúng tôi nghĩ mình là những anh hùng! Giờ mỗi lần  gặp nhau, nhớ lại, trong lòng chúng tôi vừa tự hào về một thời sôi nổi, vừa quặn thắt đớn đau, và có gì vừa trăn trở vừa tiếc nuối về một thời khờ dại, đã hiến trọn trái tim cho cái lý tưởng mà nay nhìn đời mới thấy viển vông, gửi trọn niềm tin cho bọn dối trá lọc lừa, “ăn mừng” chiến thẳng bằng tham nhũng!
                Số phận con người được định đoạt bằng vài dòng lý lịch, như một bàn án chung thân.
              Nghĩa kề, ngày ấy sau khi chia tay tôi, Nghĩa vào đơn vị đặc công, huấn luyện gần một năm, rồi đi B, ở chiến trường  đường 9, Nam Lào. Nghĩa chiến đấu dũng cảm, hơn một năm đã  được kết nạp đảng, được đề bạt trung đội phó .
               Trên ngực Nghĩa sẽ đỏ rực tấm huân chương chiến công, và chắc chắn sẽ  lên chức trung đội trưởng, đại đội trưởng, tương lai sẽ  rạng rỡ  nếu  không xảy câu chuyện  rắc rối vào một buổi chiều giữa tháng 7 – 1968.
                Đó là vào một buổi chiều mùa hè, nắng như đổ lửa. Trung đội Nghĩa làm nhiệm vụ trinh sát  tiền nhập cao điểm 689 căn cứ Khe Sanh, chuẩn bị  trận đánh sắp tới. Với quyết tâm “sờ tận tay day tận mặt”, những chiến sỹ trinh sát đặc công  tìm cách vào tận hàng rào cuối cùng.
              Rừng núi , sông suối, địa hình hiểm trở vốn là chỗ dựa của người lính trinh sát, nhưng ở đây,  qua bao  đợt bom chà đi sát lại , cây cối đổ gãy, hố bom chồng chất,  những cánh rừng bạt ngàn  đã biến thành bãi đất hoang. Những con đường mòn quen thuộc trước kia  trở nên xa lạ,  mất  hút giữa những bãi mìn, những hàng rào kẽm gai tầng tầng lớp lớp,  có hệ thống  cảm biến điện tử cực kỳ bén nhạy. Trung đội  Nghĩa ngụy trang bằng cách tắm bùn  đất đỏ  bazan,  luồn lách như  con dế trũi giữa những hố bom , cắt từng khúc  giây kẽm gai, gỡ từng trái mìn, trái pháo sáng ,  tiến vào cao điểm.  Chỉ cần một sơ xuất nhỏ của một chiến sỹ , hệ thống báo động sẽ rung lên ,  bom đạn sẽ đồng loạt chụp xuống đầu  đơn vị. 
Mặt trận Khe Sanh
            Với kỹ thuật điêu luyện, cán bộ chiến sỹ trong trung đội trinh sát của Nghĩa không để xảy ra sai sót nào.  Họ bò vào tận cao điểm , vẽ từng ụ súng, tháp canh, quan sát kỹ   cả hành vi của  lính Mỹ  tắm  dưới chân  tháp nước dã chiến cười đùa trêu chọc nhau.  Nghĩa  đánh dấu tỷ mỷ vào bản đồ và ghi nhớ từng chi tiết trong óc. Bất ngờ trước ống nhòm của Nghĩa , hiện lên một người lính Mỹ ngồi trên vách hào,  say xưa ngắm tấm ảnh một đứa bé gái. Anh ta không để ý gì tới chung quanh. Khẩu súng M16  dựa  vai, đôi mắt  đắm đuối nhìn tấm ảnh.  Anh  đưa tấm ảnh lên môi, âu yếm  hôn chùn chút, hôn đi hôn lại, nước mắt ứa ra.
                  Lần đầu tiên  Nghĩa nhìn thấy người lính Mỹ biểu lộ tình cảm với con.  Thì ra họ cũng có gia đình, cha mẹ, vợ con, họ  cũng như mình, biết yêu thương, đắm đuối,  chứ đâu phải  là những người lính đánh thuê khát máu  như  trong những bài học ở nhà trường phổ thông, những bài lên lớp chính trị của chính trị viên và những bài thơ Tố Hữu?
                Buổi chiều trôi đi châm chạp, căng thẳng như một sợi dây đàn, trong lòng Nghĩa bỗng nặng trĩu một cảm giác mới lạ. Hình ảnh người lính Mỹ âu yếm hôn hít ảnh  con gái cứ lởn vởn trước mắt Nghĩa .
                Khi trung  đội rút ra khá xa thì bất ngời chạm trán một trung đội Mỹ từ Tà Cơn  nống ra. Cuộc tao ngộ chiến  bên dòng suối cạn khiến một chiến sỹ  trung đội Nghĩa hy sinh,  phía đối phương hai người chết một bị thương. Vì đã xế chiều, rừng núi âm u, nên toán lính Mỹ rút chạy , bỏ lại hai xác chết và người lính bị thương.
                  Đó là một người lính rất trẻ, da trắng, cao khoảng một mét bảy, mặt thon, mắt sâu. Anh ta bị thương vào đầu gối,  gãy chân, không đi được.  Nghĩa dìu anh ta một đoạn, mệt quá không đi tiếp được nữa.
                 Cần phải rút nhanh khỏi trận địa, nếu  không  có thể đối phương sẽ  bắn pháo  hủy diệt. Đó là kinh nghiệm  đúc kết từ thực tế xương máu . Người lính Mỹ bị thương đã ngăn cản cuộc rút lui cấp tốc của đơn vị.
                 Trung đội trưởng Thành nói với Nghĩa:
                  - Không bắt tù binh nữa, khử  thằng Mẽo đi!
                  Nghĩa nhìn khuôn mặt hiền lành của người lính Mỹ, nói với Thành:
                  - Nó còn trẻ quá , đừng giết nó!
                  Thành gắt:
                 - Cậu thương thằng ác ôn hả?
                  - Nó là lính chiến như tụi mình !
                  - Cậu mất lập trường rồi! Bắn đi!
                  - Tôi không đồng ý bắn tủ binh!
                  Thành thét lên ra lệnh:
                  -  Bắn ! Chần chừ chết cà nút bây giờ!
                  Nghĩa vẫn không chấp hành. Thành  chĩa nòng súng vào ngực người lính Mỹ.   Người lính Mỹ  hiểu số phận của mình, nhắm mắt lại chờ đợi. Nghĩa bỗng nhớ đến hình ảnh người lính trên cao điểm lúc nãy. Anh gạt khẩu súng của Thành sang một bên, lấy thân mình che cho người lính Mỹ.
                     Thành trợn mắt nói :
                    - Tôi cảnh cáo đồng chí!
                     Nghĩa không nói gì, đẩy Thành ra .  Thành  hậm hực  ra  trung  đội  rút nhanh khỏi trận địa, bỏ Nghĩa lại với ngưới lính Mỹ bị thương.
                    Nghĩa lấy băng cá nhân của mình,  băng  vết thương cho người lính  Mỹ. Anh ta ra hiệu khát nước, Nghĩa tháo  bi đông  nước  của mình đưa cho anh ta , và chỉ tay về phía đơn vị anh ta vừa rút quân. Người lính Mỹ nắm chặt bàn tay Nghĩa nói  “Thank”.  Nghĩa để người lính mỹ lại cùng bi đông nước, chạy theo  trung đội.
                     Những cuộc họp kiểm điểm từ tổ đảng, chi bộ đến hội đồng quân nhân liên tục dành cho Nghĩa. Bao nhiêu tội trạng  chụp xuống đầu Nghĩa. Nào là  mất lập trường, nhụt ý chí chiến đấu, biến chất , thoái hóa, phản bội.  Nghĩa bị khai trừ đảng, cách chức trung đội phó, bị giam  giữ nghiêm ngặt, chờ  đưa ra Tòa án binh.
                  Cũng may trận đánh Khe Sanh cuối tháng 7-1968 ta thắng, Nghĩa được miễn trách nhiệm hình sự.  Nhưng từ đó Nghĩa không được tham gia chiến đấu mà được  biến chế vào một đơn vị hậu cần, chuyên phát rẫy tăng gia, gùi gạo, gùi đạn.   Tháng 8-1969, trong một lần gùi gạo, Nghĩa bị tập kích, bị bắt làm tù
binh,  bị giam ở đảo Phú Quốc, năm 1972, được trao trả ở bờ sông Thạch Hãn.
                 Nghĩa kể:
                - Tôi về quê,  mang theo  bản lý lịch bị khai trừ đảng,cách chức vì tư tưởng thoái hóa, mơ hồ, đồng lõa với giặc.  Xã đội trưởng nói với tôi:
                - Người ta đi chiến đấu mang vinh quang về cho địa phương, còn anh mang về vết nhục, biết bao giờ chúng tôi mới tẩy rửa được đây?
                Bố mẹ tôi không dám bước chân ra ngoài đường vì cả làng xôn xao bàn tán tôi bị kỷ luật , bị đơn vị đuổi về.
                Cô Chuyên , ngày trước có cảm tình với tôi, trong thời gian tôi tại ngũ thường qua lại, gắn bó với bố mẹ tôi. Bây giờ thấy tôi Chuyên lánh mặt.
                Sau tám năm đi bộ đội trở về, tôi  không được hưởng một tí quyền lợi, chế độ, lại bị khinh bỉ như kẻ phạm tội, tôi buồn quá làm đơn xin đi kinh tế mới. Chủ nhiệm hợp tác xã nói với tôi:
                - Anh xin đi tự do thì phải tự lo lấy . Trước khi đi phải thanh toán hết các khoản nợ của hợp tác!
                 Bố mẹ tôi có năm người con. Hai chị gái lấy chồng xa. Thằng em kế tôi nhập ngũ 1968 hy sinh 1969 . Cô gái út đang học lớp mười. Trong những năm tôi tại ngũ ,  gia đình sống nhờ  vào  hơn sào ruộng phần trăm, trong đó có tiêu chuẩn của tôi.  Giờ người ta bảo tôi bị kỷ luật không cho hưởng tiêu chuẩn, đòi lại ruộng phần trăm, bắt  phải bồi thường 300 kg thóc. Không có thóc, bố mẹ tôi đành phải gán ngôi nhà cho hợp tác trừ nợ. Tôi cùng bố mẹ và đứa em gái rời nhà đi lúc nửa đêm, như trốn chạy khỏi quê hương, sợ nhìn thấy hàng xóm.
                Nghĩa lên Phú Thọ làm nghề xẻ gỗ thuê. Tám năm sau anh mới lấy vợ và sinh được thằng con trai đầu lòng. Không ngờ gần chục năm ở Tây Nguyên , Nghĩa đã bị nhiễm chất độc màu da cam, nên con anh bị di chứng, thường lên cơn động kinh, dặt dẹo rất khó nuôi. Mỗi ngày mấy lần nhìn con lên cơn động kinh co giật , vợ chồng anh chỉ biết quỳ xuống kêu van trời Phật.
                 Năm tháng qua đi, Nghĩa và gia đình sống chiu lủi, nghèo hèn như thế. Anh không còn nhớ đến những chuyện xảy ra. Anh cặm cụi làm ăn , kiếm tiền chạy chữa bệnh cho mình và  đứa con trai .
              Trong khi ấy, ở tận cuối trời, lại có một con người luôn nhớ đến anh. Đó là người lính Mỹ , Wyliam Coper.
              Buổi chiều tháng 7-1968, ở Khe Sanh, sau khi  được Nghĩa băng bó vết thương và tha chết, Coper đã bắn một phát pháo hiệu gọi cấp  theo quy định của quân đội Mỹ.  Đồng đội của Coper đã tìm đến dòng suối cạn,  đưa anh về căn cứ, và chuyền về Sài Gòn chữa vết thương.  Từ giờ phút ấy  Wyliam Coper  giữ chiếc bi đông  của Nghĩa bỏ lại như một báu vật.  Sợ mình chết,  bị thất lạc, anh gửi chiếc bi đông đó  cho mẹ ở bang Wasington, và viết thư,  kể cho mẹ nghe về người lính Quân đội nhân dân Việt Nam , có tên và số đơn vị khắc trên bi đông  đã cứu sống mình như thế nào.
              Năm 1970, Wyliam Coper  được trở về Mỹ và giải ngũ. Anh vào học trường  đại học  nông nghiệp , sau đó lấy vợ, sinh được một con gái,và trở thành chủ trang trại trồng nho theo nghề cha mẹ.  Dù cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy nhưng không lúc nào Coper quên hình ảnh người lính trẻ đối phương cứu mình.
              Anh tìm mọi cách dò la tin tức, liên hệt với cả cơ quan  phối hợp tìm hài  cốt binh lính chiến tranh( M.I.A) để tìm đơn vị của  Nghĩa.  Khi  Mỹ- Việt bình thường hóa quan hệ, anh đã tham gia  vào một tổ chức  trợ nạn nhân chất độc da cam để có cơ hội sang Việt Nam tìm Nghĩa.
               Hàng chục năm qua đi với một quyết tâm không biết mệt mỏi, bay qua bay lại Việt Nam 26 lần, vượt qua bao nhiêu nhòm ngó, hạch sách, kỳ thị, Wyliam Coper đã tìm được Nghĩa. Và sau đó Wyliam Coper đã tìm mọi cách đưa con anh Nghĩa sang Mỹ chữa bệnh, rồi vào học trường đại học nông nghiệp nơi trước Wyliam Coper đã học. Đã hai lần Nghỉa được Wyliam Coper mời qua Mỹ thăm con và gia đình anh.
                 Tôi không muốn kể tỉ mỉ cuộc tìm kiếm của Wyliam Coper và những việc anh đã làm để giúp đỡ gia đình người cựu chiến binh Lê Hữu Nghĩa bạn tôi, bởi cho đến bây giờ vẫn chưa hết những điều mà người ta gọi là “nhạy cảm”. Anh Nghĩa nói với tôi:
                - Vừa qua tôi sang Mỹ thăm con và được gia đình ông Coper đưa đi khám bệnh, tẩy chất độc da cam, và làm cho bộ răng giả. Vừa về nước đã bị gọi lên chính quyền chất vấn là sang Mỹ phát biểu những gì? Có nói xấu đảng nhà nước không? Được bao nhiêu tiền? Số phận tôi và con tôi vẫn còn bị họ nắm trong tay anh ạ!
                  Chiếc loa  phát thanh treo trên cây xoan bỗng vang lên bài hát “Việt Nam trên đường chúng ta đi, ...mà vui sao ta chẳng nói nên lời...ta đi giữa tình thương của đảng" và thông báo kết quả 100 % nhân dân trong xã hoan nghênh bản dự thảo sửa đổi Hiến Pháp của đảng là sáng suốt, hợp lòng dân.
               Anh Nghĩa lại 'rít' một điều thuốc lào, nhả  khói, và nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sân rồi nhìn về phía cái loa trên cành xoan đầu ngõ!
M.D

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tìm thông tin blog