Tôi gặp ông lần
đầu tiên sau ngày 30-4-1975 vào thời kỳ thành phố Hồ Chí Minh còn trong tình
trạng quân quản, trong một cuộc họp của Thành uỷ do ông chủ trì bàn về vấn đề
“bài trừ văn hoá phản động đồi truỵ”. Nói cho thật đúng lúc bấy giờ tôi chỉ thấy ông chứ không gặp vì thật sự tôi chưa
hề biết mặt ông. Tôi được Bộ Thông tin Văn hoá miền Nam (lúc ấy chưa bị giải
thể) chỉ định đi họp, vào họp tôi thấy ông đang say sưa nói ở trên bàn chủ toạ,
một lúc sau tôi đưa tay xin phát biểu, và gọi ông bằng “đồng chí” trống không,
tưởng như nói với một cán bộ vô danh nào đó rồi cứ thế mà thao thao. Tôi đoán
có lẽ ông cũng không biết tôi là ai, nhưng nghe cái giọng tranh cãi có phần
hung hăng của tôi nên đã nghểnh tai, chăm chú tỏ vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi
quyết liệt phản bác hẳn ý kiến của Trần Trọng Tân bấy giờ đang phụ trách Ban
Tuyên huấn Thành uỷ.
Đáng lẽ tôi im lặng vì không tin tưởng lắm vào những cuộc họp như thế này, nhưng do đụng tới một chuyện bức xúc đã suy nghĩ từ lâu, tôi đã nói lại một ý mà tôi đã phát biểu trong một cuộc họp liên tịch giữa Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam ở ngoài Bắc khi thảo luận về “Chương trình hành động 10 điểm của CPCMLTCHMNVN”, rằng nếu chúng ta không đặt giới hạn cho chính xác mấy khái niệm “phản động và đồi truỵ” mà căn cứ vào đó làm tiêu chuẩn hành động thì sẽ vô cùng nguy hiểm, Kinh thánh sẽ bị tịch thu cùng với tranh của Picasso, thơ của Beaudelaire, tiểu thuyết của Remarque… còn mọi thứ sách nghiên cứu về khoa học nhân văn, khoa học xã hội sẽ bị liệt vào hạng “tư sản thối nát” cần tiêu huỷ hết…
Đáng lẽ tôi im lặng vì không tin tưởng lắm vào những cuộc họp như thế này, nhưng do đụng tới một chuyện bức xúc đã suy nghĩ từ lâu, tôi đã nói lại một ý mà tôi đã phát biểu trong một cuộc họp liên tịch giữa Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam ở ngoài Bắc khi thảo luận về “Chương trình hành động 10 điểm của CPCMLTCHMNVN”, rằng nếu chúng ta không đặt giới hạn cho chính xác mấy khái niệm “phản động và đồi truỵ” mà căn cứ vào đó làm tiêu chuẩn hành động thì sẽ vô cùng nguy hiểm, Kinh thánh sẽ bị tịch thu cùng với tranh của Picasso, thơ của Beaudelaire, tiểu thuyết của Remarque… còn mọi thứ sách nghiên cứu về khoa học nhân văn, khoa học xã hội sẽ bị liệt vào hạng “tư sản thối nát” cần tiêu huỷ hết…
Ở một bài viết
khác[1] tôi có nói qua điều này: tưởng như khi
ở miền Bắc, những phát biểu ấy sẽ bị gạt đi nhưng không ngờ sau đó tôi đã nhận
được quyết định do Lưu Hữu Phước ký, phân công tôi “chỉ đạo” hình thành bộ phận
“đọc và phân loại sách xuất bản ở miền Nam trước 30-4-1975”. Có một điều thú vị
là cho đến khi công việc nói trên đã gần hoàn thành, khi xem vô tuyến truyền
hình tôi mới biết cái người cán bộ nghễnh tai nghe tôi nói hôm đó chính là Võ
Văn Kiệt: ông đang diễn thuyết trước hàng hàng lớp lớp những thanh niên xung
phong ở vườn Tao Đàn! Hoá ra ông đã trở về công tác tại Sài Gòn (bí thư Đảng uỷ
đặc biệt trong Uỷ ban quân quản thành phố) trong thời gian tôi đi trị bệnh ở
miền Bắc mà tôi không biết. Trước đây tôi có nghe ông từng làm bí thư của khu
Sài Gòn Gia định, sau đổi về Khu 9, và cứ tưởng rằng người thay Trần Bạch Đằng
vào năm 1970, nếu không phải là Nguyễn Văn Linh thì cũng là Mai Chí Thọ chứ
không thể là người khác. Và khi được biết chính ông là người đã nghe tôi phát
biểu về việc phân loại sách hôm đó, một câu hỏi bỗng loáng thoáng nẩy sinh mà
cho đến bây giờ tôi vẫn chưa có lời giải đáp: trong cái hôm ông nghe tôi trình
bày đề nghị mà tôi biết chỉ có một mình tôi phát biểu, và sau ngày giải phóng
chỉ phát biểu trong cuộc hội nghị mà ông chủ trì hôm ấy, ông có góp phần gì hay
không khi gác qua ý kiến của những người như Trần Trọng Tân để chấp nhận việc
thành lập bộ phận đọc sách mà tôi biết chắc chắn Lưu Hữu Phước không thể có vai
trò gì gọi được là quan trọng cả?
Dù sao thì trong
chuyện này, về mặt cá nhân, tôi vẫn coi là đã góp được một chút thắng lợi cho
công việc chung, ít nhất thì cũng tránh được một cách có ý thức sự tràn lan bừa
bãi trong chỉ đạo về đường lối. Nhưng tất cả công việc cũng chỉ như vậy thôi,
ngoài ra không có gì khác nữa. Trong lúc Thanh Nghị đuợc đưa về làm giám đốc
Thư viện quốc gia thì tôi lại được cho ngồi nhà chờ đợi; trong thời gian này
ngoài việc tập trung hoàn thành cuốn Cuộc
xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam,thỉnh
thoảng tôi cũng xuất hiện trên báo Sài
Gòn giải phóng, Tin sáng … với những bài ngắn viết về văn nghệ
văn hoá, nhuận bút chỉ đủ uống cà phê vài bữa. Công việc viết lách này tưởng
cho vui thôi nhưng không ngờ đã dẫn tôi đến một tai hoạ không lường được. Bực
mình vì những chuyện cải tạo gọi là “xã hội chủ nghĩa”, không biết do học một
chỉ thị nào đó về chủ đề chống lại sự sa sút về phẩm chất của đảng viên, tôi đã
nổi hứng lên viết ra hai bài đăng trên Tin
sáng vào tháng 6/1979 (“Sức
mạnh của đất” và “Bản chất của Đảng”) và chính vì hai bài viết này, tôi bị
Thuờng vụ Thành uỷ lôi tên ra trong những cuộc học tập mùa hè năm đó với cái
tội mà trong chế độ mới này ai nghe qua cũng thấy rợn người: một loại “Nhân
văn-Giai phẩm, chống Đảng tinh vi”! Điều đặc biệt nhất của chiến dịch kết
tội này là tôi không hề được biết, không ai cho tôi biết mặc dù là trong Thành
uỷ bấy giờ có những người biết tôi rất rõ từ trong chiến khu: Mai Chí Thọ đã
giăng võng nghỉ trưa ở cái chòi của tôi tại rừng Tà Leeng sau hiệp định Paris,
gần sông Thị Tín suốt một tuần lễ khi ông đến giảng bài ở trường Đảng gần đó,
còn Trần Trọng Tân thì là người đã đại diện Thành uỷ dự lễ kết nạp tôi vào 1968
. Không ai nói với một tiếng nào, cũng không cần hỏi chủ đích của tôi là gì, kể
cả thông báo với chi bộ nơi tôi sinh hoạt, và cứ như thế mà sự kết án công
khai, ồn ào từ Sài gòn lan về các tỉnh.
Tất cả những kết
án đó chỉ đến tai tôi một cách gián tiếp, qua lời thuật của bạn bè, nhất là qua
những giáo viên dự các lớp chính trị có quen biết với gia đình tôi. Tôi đã tổng
hợp tất cả những lời kết án ấy lại, làm một tường trình, nhờ Lê Duy Hạnh cùng
sinh hoạt một chi bộ, qua một đường quen biết riêng, gửi cho Võ Văn Kiệt như
một thư khiếu nại. Kết quả thật ngoạn mục: một thời gian sau không lâu, Trần
Trọng Tân đã tìm đến nhà tôi, cho biết chính “anh Sáu” đã đưa thư cho ông đọc
và đề nghị ông đến gặp tôi để giải quyết. Một cách xuề xoà, Trần Trọng
Tân cho rằng đọc thư tôi ông thấy không có gì trầm trọng lắm, chỉ do tôi “cầm
đèn chạy trước ô-tô thôi”, những gì Đảng chưa nói thì người cầm bút không nên
nói trước, gây ra những xôn xao không cần thiết. Trần Trọng Tân an ủi: không
sao đâu, cần rút kinh nghiệm là được. Tôi thật không thể nào hiểu nổi cái cách
xử lý vấn đề lạ lùng và đơn giản đến như vậy: không cần biết sự thật ra sao,
không cần gặp gỡ tìm hiểu về mặt động lực của con người mà chỉ căn cứ vào một
số hình thức biểu hiện để suy ra rồi quy chụp, bất chấp sinh mạng chính trị của
đồng chí mình, sau đó nghe phân bua thì lại nói là không có gì, không sao cả.
Bất nhẫn trước những lời giải thích ấy, tôi đã trả lời Trần Trọng Tân rằng tôi
không thể nào tiếp tục được một cuộc chơi ở đó người cầm bút được xem là một
thứ cần vụ của chính trị thô thiển đến như vậy. Những gì ông tiếp tục giải
thích an ủi càng làm cho tôi thấy công việc viết lách mà mình coi là một thứ lý
tưởng đã trở thành hết sức vô nghĩa, hết sức tầm thường. Sau buổi gặp mặt ấy,
tôi tự nói với mình rằng khi hoàn tất cuốn sách đã ký với nhà xuất bản Văn hóa,
tôi sẽ đem bán tất cả sách vở, gác bút đi làm một chuyện gì khác đỡ bạc bẽo
hơn.
Tưởng mọi việc
đã xong xuôi nhưng một thời gian sau không lâu, tôi thật bất ngờ khi thấy Rum
Bảo Việt (bí danh Sáu Chiến, bấy giờ phụ trách Đảng uỷ Văn nghệ thành phố và
cũng là một người đã chủ trì cuộc kết nạp tôi ở vùng giải phóng vào năm 1968)
một hôm ghé nhà tôi cho biết ông Kiệt mời tôi đến dự buổi gặp mặt do ông chiêu
đãi tại nhà hàng Rex nhân dịp ông chuyển sang phụ trách văn nghệ, (trước đó tôi
nghe dường như để đối phó với một tình hình có phần lộn xộn do mấy thứ gọi là
“văn nghệ đồi truỵ” đang muốn ngóc đầu trở lại). Tuy rất có ấn tượng khi ông
phụ trách về kinh tế với chính sách tháo gỡ gọi là “ba lợi ích” nổi đình nổi
đám lúc bấy giờ, tôi tự hỏi trong lĩnh vực văn nghệ cực kỳ phức tạp này, ông
biết gì mà dám nhẩy vào để gọi là lãnh đạo. Nghĩ thế nhưng trước một sự mời mọc
quá trân trọng, thông qua một người thân quen là Sáu Chiến, tôi vẫn nhận lời.
Nhà hàng Rex hôm đó đông nghẹt đủ các thành phần văn nghệ sĩ trí thức ở Sài gòn
thuộc đủ các ngành, ồn ào chẳng có vẻ gì là một cuộc họp như thường gặp. Khi
mọi người đã ngồi vào chỗ rồi, tôi thấy ông Kiệt chỉ đứng lên nâng ly chúc mừng
anh em mà không hề có một bài diễn văn nào, rồi sau đó cũng chẳng có một bài
tham luận nào cả. Trong khi nhiều anh em bâu vào chỗ ông ríu rít thăm hỏi, nói
chuyện thì tôi chọn một bàn ở tận cuối phòng với một số người quen, uống bia
lai rai. Nhưng không ngờ trong cái không khí om xòm nhậu nhẹt đó, từ dãy bàn
hàng đầu, ông Kiệt xăm xăm đến đúng chỗ tôi ngồi, coi như đã quen biết từ lâu,
cụng ly rồi nói: “Lữ Phương! Bữa nào tới mình nhậu chơi!”.
Hơi lấy làm lạ
với cách ứng xử đó, nhất là khi biết rõ rằng tôi chỉ thấy ông một lần chứ chưa
từng thực sự gặp ông để ông có thể nhớ mặt, nhưng tôi nghĩ có lẽ ông đã nhờ Rum
Bảo Việt chỉ dẫn để ông đến gặp tôi hoặc là xã giao hoặc do ông đã đọc thư
khiếu nại của tôi về vụ hai bài báo trên Tin
sáng, nên cũng cố ý làm vậy để bày tỏ sự an ủi như Trần Trọng Tân đã làm.
Nhưng lại một bất ngờ khác đã xảy ra: sau đó vài hôm, vào một buối tối, tôi
thấy Sáu Chiến đem xe hơi tới nhà tôi nói ông Kiệt mời tôi tới chỗ ông chơi như
tôi đã hứa. Xe đưa tôi tới chỗ mà ông hay tiếp khách vào lúc bấy giờ là Văn
phòng Thành uỷ ở đường Trương Định. Bước vào căn phòng mà ông tiếp tôi, tôi có
cảm giác đây là một buổi gặp gỡ riêng tư, đặc biệt: quanh cái bàn bày biện sẵn
các loại thức ăn, có cả rượu, bia, thuốc lá, quanh bàn chỉ có hai chiếc ghế để
ông và tôi ngồi đối mặt với nhau. Ông không nói gì về mục đích của buổi gặp,
chỉ niềm nở vui đùa, có ý nhường lời cho tôi, cho nên sau vài ly bia vào tôi
bỗng thấy hứng lên và huyên thuyên đủ thứ chuyện, còn ông thì lâu lâu chỉ chêm
vào mấy câu mà tôi loáng thoáng còn nhớ khi đề cập qua về nghệ thuật, chẳng hạn
như đi nghe nhạc giao hưởng hoặc xem múa ballet ông không hiểu gì mấy. Lúc bấy
giờ tôi cũng đã biết qua nhân thân của ông nhưng lại không hề thắc mắc với câu
hỏi đặt ra ban đầu về công việc phức tạp mà ông sắp đảm nhận, bởi vì qua cuộc
tiếp xúc ấy cái ấn tượng còn lại trong tôi không có gì khác hơn là sự thoải mái
được gần gũi với một người lãnh đạo dễ thương, biết lắng nghe tôi nói, coi tôi
là một người đối thoại không giống chút nào với cung cách của một vài người
lãnh đạo khác mà tôi đã từng tiếp xúc như Trần Bạch Đằng và Tố Hữu.
Về Trần Bạch
Đằng tôi đã gặp nhiều lần hồi vào chiến khu từ Mậu Thân ở vùng ven. Vào năm
1970, trên đất Kampuchia, khi từ bộ Thông tin Văn hoá trên R xuống công tác ở
Y4, tôi đã từng nghe ông hùng hồn thuyết minh về đường lối đấu tranh ở đô thị
với luận điểm rất táo bạo, đi ngược lại sách vở giáo khoa về chủ nghĩa
Mác-Lênin; ông nóí rằng ở miền Nam, giai cấp công nhân hơi bị “xệ d…” nên không
thể đóng được vai trò tiền phong của cách mạng, vai trò ấy đã thuộc về sinh
viên trí thức: sinh viên và trí thức lúc đó chẳng những là ngòi pháo mà còn trở
thành thân pháo nữa! Bấy giờ là lính mới, tôi rất thú vị với luận điểm ấy của
ông và rất hào hứng khi gặp ông riêng nhiều lần nghe ông kể chuyện vui, đọc
thơ, đọc cả một chương nào đó của một cuốn tiểu thuyết mà ông đang viết. Khởi
đầu tôi nghĩ ông là một nhà cách mạng “văn võ song toàn”, nhưng gặp ông nhiều
lần nữa tôi bắt đầu nhận ra cái cung cách “anh hai Nam bộ” nơi ông khá rõ: ông
quá tự tin về mình, về ý kiến của mình và rất thích đem niềm tin ấy truyền cho
người khác dưới một hình thức gần như áp đặt. Lần nào tiếp xúc với ông tôi cũng
thấy ông nói liên tục và không hề biết tôi nghĩ gì về điều ông nói. Sau này,
qua giải thích của nhiều cán bộ trên R tôi biết được ông đã bị Đảng xếp vào
loại “thích nhảy cao đá dài”, nhưng thiếu hẳn “căn cơ” nên rất dễ bốc đồng và
vấp ngã. Nghe thông tin ấy tôi đã hiểu tại sao khi đưa ra luận điểm nổi tiếng
về sự “xệ d…” của giai cấp công nhân, thật sự thì không có gì sai về mặt thực
tế, ông vẫn bị Nguyễn Văn Linh từ Trung ương Cục xuống Y4 lôi về R để kiểm điểm
và ngưng công tác một thời gian khá lâu.
Sau ngày
30-4-1975, tôi rất ít khi gặp ông. Nhưng thấy ông viết nhiều trên Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Thanh niên…
vẫn với giọng điệu của một đại ca, được một số đệ tử thần phục gọi là “học giả”
rất long trọng. Tôi cũng được tin sau một chuyến đi công tác ở Ba Lan về, ông
bị phê bình, bị công an theo dõi, phải đưa ra Bắc học trường Nguyễn Ái Quốc …
Cũng nghe sau một thời gian làm phó ban Tuyên huấn Trung ương thì ông về hưu
tập trung vào công tác văn hoá, văn nghệ với tư cách cá nhân: ngoài việc viết
báo, viết truyện, ông cũng đứng ra nhận lãnh hàng loạt những công trình làm ăn
gọi là “điạ dư chí” cho một số tỉnh, thành, mời một số cây bút hợp tác, căn cứ
vào những bài viết có sẵn ông đưa ra những nhận định tổng hợp. Lúc bấy giờ quan
điểm của tôi về chế độ mới đã bắt đầu hơi “lộn xộn” rồi, đọc những bài ông viết
tôi không còn thấy hào hứng như thời còn kháng chiến nữa, nên không hề có ý
định gặp ông. Nhưng dường như ông không biết điều đó, nghĩ rằng tôi vẫn là một
thứ “đệ tử” để ông phân công, nên có một lần ông đã gửi một cô thư ký đến nhà
tôi đưa cho tôi một đề cương nghiên cứu về lịch sử cách mạng mà ông đã nhận làm
cho tỉnh Sông Bé, trong đó gồm đầy đủ các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá…có
ghi tên một số người đảm nhận, riêng phần tôi thì trong bức thư riêng, ông đề
nghị tôi phụ trách nghiên cứu phần… quân sự! Đọc xong bức thư “phân công” ấy
tôi cười ngất và bảo cô thư ký về nhắn với ông là tôi … chịu thua hoàn
toàn!
Về ông Tố Hữu
thì tôi chưa bao giờ gặp riêng. Nhưng sau 30-4-1975 một thời gian, tôi có dịp
đi nghe ông diễn thuyết một lần ở Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ
Chí Minh. Được nghe một vị lãnh đạo cao cấp từ Trung ương vào nói chuyện, anh
em đến dự khá đông. Vì hội trường đã đầy nghẹt, tôi chọn một chỗ sát cửa ra
vào, cho thoáng mà cũng đề phòng trường hợp chán quá thì … rút lui sớm! Ngồi kế
tôi là một đạo diễn điện ảnh của Sài gòn cũ, tóc và râu rất dài. Khi Tố Hữu từ
ngoài bước vào, có Bảo Định Giang nối đuôi, ông dừng lại trước nhà đạo diễn này
và sau một câu hỏi thăm về nghề nghiệp, ông phát ra ngay mấy câu lên lớp làm
tôi ngượng đến chín người, đại khái: sao
lại để râu tóc chi cho dài coi già và buồn quá vậy…? rồi tay cầm cái quạt,
thong thả lên bàn chủ toạ… Lập tức Bảo Định Giang khúm núm bước theo: “Xin giới thiệu với các đồng chí
người Anh Cả trong làng văn nghệ của chúng ta mà mọi người đều biết: đồng chí
Tố Hữu! Mặc dầu bận trăm công nghìn việc, hôm nay đồng chí Tố Hữu cũng đến đây
nói chuyện với chúng ta về một số vần đề văn nghệ…..v.v…”. Sau khi Bảo Định
Giang vừa dứt lời thì bị Tố Hữu chỉnh ngay: “Anh Bảo Định Giang nói sai rồi!
Làm chi mà trăm công nghìn việc, người cộng sản lúc nào cũng thong dong, thoải
mái… Và có gì mà “Anh Cả” với “Anh Hai”, tôi cũng chỉ là một người làm thơ như
các anh em làm văn nghệ thôi…”. Ngừng một lúc rồi ngó quanh, ông chỉ cây
quạt vào một khẩu hiệu bên vách phòng họp: “Tất cả cho sản xuất”, cũng sai
rồi, trong văn nghệ tại sao không nói “tất cả cho sáng tạo”… mà lại nói “tất cả
cho sản xuất”?
Phải nói rằng
cái cách mở đầu câu chuyện như vậy cực kỳ gây ấn tượng với tôi, và đột nhiên
tôi hơi lo cho Bảo Định Giang: nói năng thế nào mà bị “chỉnh” trước mặt mọi
người như vậy thì kể như tiêu rồi. Lại còn ông Viễn Phương, nhà thơ mà tôi biết
từ trong khu, nay là chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật thành phố lúc ấy
nữa: viết khẩu hiệu tuyên truyền làm sao mà để bị “đì” như vậy! Với những niềm
hứng thú đó, quên vụ ông đạo diễn lúc nẫy, tôi lắng nghe Tố Hữu nói đủ thứ về
văn nghệ, thế nào là xã hội chủ nghĩa, thế nào là dân tộc , hiện đại… nhưng một
chặp thì thấy những điều ông nói chẳng có gì là mới, đã do người khác hoặc do
chính ông đã viết ra cả rồi nay chỉ lặp lại thôi. Duy có một hình ảnh mà tôi
nhớ mãi khi ông dùng để nói về tính dân tộc trong văn nghệ, đại ý: tại sao chúng ta cứ xem cái mũi dài
phương Tây là chuẩn mực của cái đẹp thể hình mà lại không phải là mũi tròn của
ta? …. Tinh thần dân tộc được
đưa lên cao tột độ sau khi thắng Mỹ để trở thành môt thứ chủ nghĩa dân tộc vẫn
là đề tài chính yếu của Tố Hữu và Lê Duẩn.
Sau buổi họp đó,
anh em chúng tôi tạt sang cái quán bia khá rộng nằm ngay trong khuôn viên của
Hội và đề tài của cuộc “toạ đàm” tiếp theo lại là cuộc thuyết trình của Tố Hữu
lúc nẫy. Vì quá ấn tượng với cuộc mở đầu của buổi họp, tôi bày tỏ ngay sự lo
lắng của mình về việc Bảo Định Giang bị “đì” thì lập tức một anh bạn cùng bàn
ngắt lời: “Ông chẳng biết gì cả. Tôi nói ông biết Bảo Định Giang chỉ là cái mõ,
còn người cầm đũa để gõ là Tố Hữu! Đưa đầu cho Tố Hữu gõ đó là cách lấy điểm
đấy ông à! Tố Hữu rất cần có những cái đầu cho ông nện để tỏ uy quyền lãnh đạo…
Trong tất cả những đệ tử của Tố Hữu, Bảo Định Giang là người trung thành triệt
để đấy! Ông không biết chuyện Bảo Định Giang đã nổi danh với câu tuyên bố hồi
đánh Nhân Văn-Giai Phẩm ở miền Bắc sau đây sao: Tôi chỉ là con chó gác cổng cho
Đảng, thấy cái gì lạ thì tôi sủa lên để Đảng tìm cách xử lý!”? Anh bạn này vừa nói xong thì một anh
khác đọc luôn hai câu vịnh về Bảo Định Giang, không biết ai là tác giả, cho đến
nay tôi còn nhớ mãi: “Thấy ‘trên’ lóm thóm lưng tôm bạc / Thấy ‘gái’ ngo
ngoe đít cá vàng”. Thực hư
như thế nào không biết nhưng nghe xong mấy lời lẽ có vẻ tiếu lâm ấy, tôi đã
phải cố kềm để ngụm bia vừa uống khỏi vọt ra ngoài vì sặc!
Khi nhớ lại
những nhân vật trên đây rồi so với việc Võ Văn Kiệt nhẩy sang lãnh đạo trí thức
và văn nghệ sĩ tôi thấy ông “không giống ai” hết! Ông không phải là một văn
nghệ sĩ, lại không biết gì nhiều về lý luận văn nghệ, nhất là thứ lý luận văn
nghệ mácxít-lêninít vốn được xem là chính thống của chế độ đã có từ thời chống
Pháp đến nay. Nhiều lần tiếp xúc với ông, tôi thấy ít khi nào ông đi sâu vào
những đề tài văn nghệ, nhất là không bao giờ ông đụng chạm đến vấn đề lý luận
mà hễ có dịp nào tôi nhắc đến ông đều im lặng lắng nghe, không hỏi tiếp cũng
không bắt chuyện. Tôi nghĩ không phải ông không quan tâm đến các vấn đề này mà
có lẽ ông biết rất rõ rằng ông không có đủ trình độ để đề cập, có thể gây ra
tranh luận không cần thiết nhưng cũng có thể ông nghĩ rằng đó là lĩnh vực
chuyên ngành của những bộ môn khác nhau, để những vấn đề đó cho những nhà chuyên
môn giải quyết, phần ông, ông chỉ đến với văn nghệ sĩ, trí thức như những người
bạn, thông cảm với họ trong công việc, quan trọng nhất là tạo ra một tình cảm,
một lòng tin của họ với ông với tư cách là một người lãnh đạo Đảng, để họ cùng
đi chung với ông trong một mục tiêu chính trị nào đó. Khi tiếp xúc những người
tiêu biểu có uy tín ông đã tiếp đãi họ riêng rẽ từng người một chính là để biểu
thị sự quý mến và trân trọng của ông với cá nhân của họ. Tuy vậy khi cần thiết
phải bộc lộ tình cảm ấy ông cũng biết sử dụng cái khả năng nhà nước mà ông có
được để chăm lo thiết thực một số đối tượng (tiêu biểu như việc ông gửi tiền
cho Sơn Nam sửa nhà, gửi gạo cho Trịnh Công Sơn… ); cùng với những hành vi ấy
là việc ông nhờ người đem từ miền Tây về các thứ rắn rùa để đãi đằng anh em,
tất cả đều có mục đích biểu thị một quan tâm chân thành với mọi người, không
phải chỉ với những anh em từ chiến khu trở về, ở miền Bắc vào mà cả với những
nghệ sĩ trí thức của chế độ cũ đang ở lại cộng tác với chế độ mới nữa.
Do xuất thân từ
phong trào đô thị, tôi nhận thấy cái cách thức vận động trí thức văn nghệ sĩ
nói trên rất giống với cái cách dân vận của thời cách mạng chưa có chính quyền.
Có thể nói đó một thứ phương pháp chinh phục trái tim từng con người một, qua
sự chinh phục đó, lôi mọi người vào cuộc đấu tranh chung. Quyền lực của nhà
nước mà ông có được trong tay sau khi cách mạng thành công có thể giúp công
việc ấy dễ dàng hơn, nhưng không quan trọng lắm: ông không bao giờ bộc lộ quyền
uy ấy với bất cứ người trí thức nào mà ông làm việc hay tiếp xúc, khác hẳn với
cái cung cách lãnh đạo quan cách dựa trên những chế độ, những tôn ti về định
chế, hình thức, quan liêu hình thành ở miền Bắc sau 1954 tràn vào miền Nam sau
ngày thống nhất, biểu hiện rõ nhất nơi thái độ bề trên và mị dân của Tố Hữu mà
tôi chứng kiến tận mắt. Gần gũi ông một thời gian, tôi có cảm giác như phong
trào do ông vận động vẫn giữ được ít nhiều tính chất của một cộng đồng lý tưởng
thời bí mật mà mỗi thành viên tham gia đều được bảo vệ và đùm bọc lúc khó khăn.
Thái độ của ông đối với bà Ba Thi về chuyện “xé rào” thu mua gạo để cung cấp
cho thành phố và không để thiệt cho nông dân (“tôi sẽ thăm nuôi nếu chị ở tù”)
là một trường hợp, không khác gì trường hợp ông biết khoan dung với việc Nguyễn
Trọng Văn thách thức ông về chuyện “ra đi hay ở lại” hoặc trường hợp ông thường
can thiệp bảo lãnh nhiều trí thức bị bắt vì vượt biên trái phép…
Nghĩ lại trường
hợp của mình tôi cũng có cảm giác như ông đã đối xử với tôi như thế khi đọc
xong bức thư khiếu nại tôi gửi ông về vụ hai bài báo trên Tin sáng, bằng cách đưa Trần Trọng Tân đến
nhà tôi rồi sau này tự tìm đến tôi không phải chỉ như một vỗ về mà còn tiến tới
chỗ kéo tôi vào cái cộng đồng mà ông đang xây dựng. Qua tiếp xúc một vài lần
với ông, tôi đã nhận ra ngay mục đích ấy nhưng theo một thiên hướng tình cảm
như tất cả những anh em khác, tôi đã tham gia vào đó một cách tự nhiên, không
hề nghĩ rằng ông đã sử dụng mình. Ông tỏ ra rất thích thú khi biết vào chính
lúc ông khuyến dụ tôi tôi đã hoàn thành cuốnCuộc xâm lăng về văn hoá và tư
tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam, đang giao cho Nhà xuất bản Văn
hoá ở Hà Nội ấn hành ở nhà in Trần Phú, và đã qua một trợ lý nào đó đề nghị Hà
Mậu Nhai lúc bấy giờ phụ trách Nhà xuất bản Văn nghệ Tp HCM in thêm 1000 cuốn
nữa để phổ biến rộng rãi hơn. Khi cuốn sách in xong tôi có gửi biếu ông một
cuốn, không biết ông có thì giờ đọc cuốn biên khảo nặng nề ấy hay không, nhưng
sau đó ông xin tôi vài cuốn nữa để cho người khác, trong đó có một bản ông đề
nghị tôi ký tên tặng ông Nguyễn Văn Trấn lúc bấy giờ hay gặp gỡ ông rất thân
thiết. Ngay trong khi ông còn sống, tiếp xúc với rất nhiều trí thức, văn nghệ
sĩ có dịp làm việc, quan hệ với ông, tôi thấy không ai là không giữ được nơi
ông ít nhiều kỷ niệm về sự ân cần, chăm sóc thật lòng của ông đối với họ.
Gần gũi ông, tôi
có cảm giác như trở lại thời kỳ hoạt động bí mật ở đó ông là hình ảnh tiêu biểu
của một cán bộ còn đang sống trong một hoàn cảnh được người dân che chở mà nếu
không hiểu họ đang nghĩ gì, không biết họ sinh sống ra sao, bất mãn điều gì và
mong chờ điều gì thì cuộc cách mạng mà người cán bộ có nhân danh như thế nào đi
nữa cũng là vô nghĩa, tự cô lập và sớm muộn cũng sẽ tự diệt vong. Không phải
những cán bộ khác không biết cái bài bản ruột đó nhưng ở ông tôi thấy đã biểu
lộ một cách hồn nhiên như tính cách của ông, không hề tỏ ra cố gắng và đóng
kịch. Tôi nhận ra thật rõ điều đó trong một lần gặp gỡ có nhiều anh em, nhân
nhắc đến chuyện những trí thức vượt biên bị bắt, ông đã nổi hứng lên kể chuyện
Bác Hồ bỏ lăng nghìn năm ở Hà Nội vào Nam đi tìm đường cứu nước một lần nữa mà
vì không có hai cây vàng bỏ túi nên đành ngồi củ rủ ở Bến Nhà rồng! Kể xong câu
chuyện ấy ông cười hể hả. Nhưng không dừng lại ở đó, ông kể thêm một chuyện
khác, cùng một đề tài, có dính líu đến bản thân ông. Ông kể một hôm nào đó ông
về Củ Chi thăm một bà má cơ sở đã che chở ông thời kỳ chiến tranh và được bà
khoe với ông rằng số tiền bà dành dụm được bấy lâu bà đã lo cho một đứa cháu
nội vượt biên, thoát rồi! Nhưng chưa hết: ông chưa kịp có ý kiến gì thì sau khi
nhỏn nhoẻn chùi xong vết trầu ở miệng bà cho biết tới đây bà sẽ bán miếng đất
kế bên lấy tiền cho đứa cháu ngoại đi tiếp cho … nội ngoại công bằng!
Kể xong ông vẫn
cười, tôi cũng cười theo nhưng bỗng thấy lòng rưng rưng. Không biết ở đâu và làm
sao mà ông nhặt được câu chuyện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước lần thứ hai như
vậy, và làm sao ông có thể đem câu chuyện thật đau lòng về một bà má Củ Chi
từng là cơ sở của ông để kể ra cho chúng tôi nghe một cách tự nhiên đến như
vậy! Với ai thì có thể là một chuyện bình thường, nhưng với một người cộng sản
lãnh đạo như ông thì những câu chuyện đó đâu phải chuyện bình thường! Vậy mà
ông vẫn kể những chuyện đó cho chúng tôi nghe như chúng tôi đã từng kể cho nhau
nghe. Ông có khác gì chúng tôi đâu: trong thâm tâm tôi chắc ông đã hiểu rất rõ
rằng những chính sách từ miền Bắc đưa vào sau khi chiến tranh chấm dứt, ồ ạt
gọi là “cải tạo xã hội chủ
nghĩa”, nghe rất cao siêu nhưng thực tế lại không mang đến hiệu quả gì khác là
đẩy người dân vào một tình trạng tuyệt vọng cùng cực đến phải bỏ nước ra đi!
Với sự nhạy bén của một cán bộ thời hoạt động bí mật, ông đã nhận ra ngay sự
nghiêm trọng của tình thế và trong cương vị của mình ông đã cố gắng hết mực
trong những khả năng có thể làm được, kể cả đi ngược lại đường lối chính thống,
để tìm cách làm vơi bớt đi nỗi khổ cho những con người mà không có họ cuộc cách
mạng của ông không thể có được một cơ ngơi như ngày nay!
Sau một thời
gian tới lui với ông trong không khí ấm áp hiếm có của những năm đầu sau chiến
tranh cực kỳ vất vả, một hôm tôi được nhà báo Thép Mới (lúc bấy giờ là người
viết cho ông những bài phát biểu về văn hoá, văn nghệ) đề nghị tôi chuyển biên
chế về Văn phòng Thành uỷ, cùng với anh và một cán bộ nữa thành lập một tổ trợ
lý về văn hoá cho ông. Tôi chấp nhận ngay nhưng về rồi mới nhận thấy cái hình
thức tổ chức mà ông lập ra như vậy mang tính chất có vẻ tình cảm nhiều hơn thực
tế. Thép Mới vẫn giữ công việc viết lách cho ông, còn tôi thì chẳng có sự phân
công cụ thể nào. Trong tình thế khó xử ấy, tôi đã tự tìm việc cho mình bằng
cách làm một báo cáo về quá trình tiếp xúc một số trí thức văn nghệ sĩ của Sài
Gòn cũ hy vọng giúp ông hiểu họ nhiều hơn về chiều sâu của tâm tư. Sau vài ba
tháng bản báo cáo ấy đã hoàn thành, ghi lại một cách trung thực những suy nghĩ
của hơn 30 trí thức và văn nghệ sĩ về tình hình đất nước từ sau ngày 30-4-1975
đến lúc bấy giờ (đầu năm1982), toàn bộ văn bản đó đã toát lên những phê phán,
chỉ trích rất nặng nề về những bất cập sai lầm do đường lối cải tạo của Đảng
sau chiến tranh trên rất nhiều phương diện. Tôi gửi Thép Mới nhờ Văn phòng
Thành uỷ đánh máy chuyển cho ông, không biết ông có đọc được hay không vì từ
đấy về sau tôi ít có dịp gặp ông, trong khi đó thì bên ngoài, báo cáo ấy không
hiểu sao đã đến tay rất nhiều người trong đó có Lê Ngộ Châu, Nguyễn Hiến Lê,
còn ở bên trong thì không hiểu sao Trần Bạch Đằng cũng có được một bản!
Tổ công tác đó
tồn tại chưa bao lâu và cũng chưa làm được gì thì chúng tôi được biết ông sẽ
rời thành phố Hồ Chí Minh ra Trung ương nhận nhiệm vụ mới. Chuyện trước khi ra
đi của ông có liên hệ đến cá nhân tôi cũng là một điều thật đáng nhớ. Vì ông
không còn ở đây nữa nên tổ công tác do ông thành lập bị giải thể cũng là lẽ tất
nhiên. Thép Mới là cán bộ cao cấp của báo Nhân
dân và sẽ về với nhiệm sở của
anh thì không khó khăn gì, nhưng còn với tôi, ở biên chế Bộ Văn hoá, tôi đã là
một món hàng phế thải, về làm việc với ông như một sự vụ tạm thời, nay ông đi
rồi, sẽ làm việc ở đâu đối với tôi không có gì quan trọng, nhưng với một người
tình cảm như ông, tôi biết ông cũng nghĩ tới như ông đã lo cho nhiều cán bộ trợ
lý của ông. Và thực tế ông đã làm như vậy. Một hôm nào đó ông mời một số cán bộ
khoảng chục người gần gũi ông trong đó tôi nhờ rất rõ có Trần Bạch Đằng, và
quan trọng hơn nữa là Tám Hồ, bấy giờ đang phụ trách Văn phòng Thành uỷ, với
một cán bộ tổ chức nào đó tôi quên tên, vào chỗ ở của ông ở An Phú bên sông Sài
Gòn, để sau một bữa cơm, ông cho biết quyết định thành lập ra một bộ phận gọi
là “Nghiên cứu chủ nghĩa thực dân mới về văn hoá”, do Văn phòng thành uỷ quản
lý và người phụ trách bộ phận nghiên cứu này là… Lữ Phương!
Với tôi, điều
này thật bất ngờ! Tôi cảm nhận được ngay cái tính chất chênh vênh của một quyết
định như vậy: một bộ phận nghiên cứu nghiêng hẳn về phần chuyên môn rất khó phù
hợp với sự quản lý của một Văn phòng hoàn toàn mang tính chất hành chính, sự vụ
và tác chiến. Dù sao tôi vẫn cảm động về sự chu đáo của ông: ông cố tìm cách
gài tôi vào một hình thức tổ chức nào đó để tôi không còn lông bông và … lộn
xộn như trước nữa! Thấy không ai có ý kiến gì, ông có vẻ hài lòng, sau đó ông
rủ tôi theo ông đi khai mạc môt gánh hát Hồ Quảng đang ra mắt tại Nhà Hát Thành
phố. Đi giữa một hàng rào cán bộ đón chào, tôi bước theo ông giữa hai hàng ghế
về phía sân khấu, đến gần giữa rạp thì bỗng hàng loạt những tràng pháo tay nổi
lên đón chào ông, tôi giật mình vội vàng lùi lại để nhường ông đi tới, nhưng
ông cũng đã vội vàng ôm vai tôi kéo lên phía truớc đi cùng với ông rồi sau đó
để tôi ngồi kế bên ông cho đến hết buổi biểu diễn. Thực lòng tôi không thể
không cảm thấy ngượng nghịu khi được “ăn theo” cái niềm vinh dự của cá nhân
ông, tuy vậy tôi thấy cách ứng xử của ông hôm ấy thật tuyệt diệu vì thật tế
nhị! Và đó là cái cảm giác và cũng là hình ảnh ảnh cuối cùng tôi gần bên ông
trước khi ông ra Bắc cho đến 26 năm sau tôi mới có dịp gặp lại ông ở Sài
Gòn.
Trong 26 năm đó
ông đã trở thành một nhân vật quốc gia, góp phần không nhỏ vào việc đưa đất
nước sang một khúc quanh phát triển và hội nhập mới, đẩy lui hẳn về quá khứ
những ngày tối tăm sau chiến tranh. Còn phần tôi thì sau cái hôm đi xem Hồ
Quảng với ông, tôi trở về Văn phòng Thành uỷ, không làm điều gì hơn là cứ mỗi
tháng đến lãnh “sinh hoạt phí” một lần. Cái tổ chức mà ông muốn lập ra như một
chuyện đã rồi và gài tôi vào đó như một chuyện đã rồi không thấy ai nói đến cả.
Và cũng chẳng ai báo cho tôi biết cái quyết định mà ông đã đưa ra đó đã bị huỷ
bỏ như thế nào và tại sao phải huỷ bỏ. Cũng chẳng ai nói gì đến chuyện công tác
hay sinh hoạt Đảng của tôi nữa. Đã quá quen với những chuyện như vậy hồi ở Bộ
Văn hoá và cũng đã có chút kinh nghiệm để lường trước tính chất bấp bênh trong
thời gian làm việc với ông, tôi đã tiếp nhận mọi việc xảy đến một cách bình
thường. Tên tôi từ đó được nhập vào danh sách của một số “anh hùng Lương sơn
Bạc” của Ban Tổ chức thành uỷ, hiểu như một số cán bộ thừa, không biết xử sự ra
sao, không biết đưa về đâu. Hồ sơ Đảng tôi xin rút từ Bộ Văn hoá định đem nộp
cho Tổ chức thành uỷ, trước tình hình ấy, đã bị tôi nhét vào xó tủ, sau đó thì
quên luôn và các tổ chức Đảng cũng chẳng ai quan tâm. Nhưng có lẽ có một ai đó
ở thành uỷ sực nhớ một thời gian tôi có dính dáng đến cái tổ chức mang tên là
Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ hồi trước chiến tranh, nên tôi đã được
chuyển về Mặt trận Tổ quốc thành phố, ở đây những người phụ trách hình như cũng
không ai biết quá trình công tác của tôi là gì nên cũng không biết căn cứ vào
đâu để xếp lương mới cho tôi. Tình trạng ấy kéo dài gần 20 năm.
Có một vài người
thân biết điều đó đã đề nghị tôi viết thư cho ông để làm thêm một cuộc “khiếu
nại” nữa, nhưng tôi không chú ý lắm: ông đã làm hết sức với tôi rồi và đã làm
theo cái cách riêng của ông mà không phải ai cũng hiểu được. Nếu tôi được ông
quan tâm một lần nữa và lại tìm cách “gài” tôi một lần nữa vào một hình thức tổ
chức nào đó thì cũng không có gì bảo đảm cuối cùng, do nhiều nguyên nhân, tôi
sẽ không bị hất ra một lần nữa. Một cuộc cách mạng đã trở thành một guồng máy
rồi. Ông vẫn xem guồng máy ấy là của mình để đi theo nó đến cùng và tìm cách
chuyển hoá nó và cũng gặp không ít khó khăn cho bản thân, không phải muốn làm
gì cũng được. Không khác gì tướng Trần Độ là một người quen thân với tôi, ông
cũng tìm cách phả vào cái guồng máy vô hồn sau cách mạng đó một chút hơi ấm của
những “ngày xưa”, nhưng nếu Trần Độ bị khai trừ vì nhiều lúc quá quyết liệt thì
với những đức tính của ông, ông đã có đủ kiên trì và bản lĩnh để vượt qua và
thực hiện được phần nào đó mục đích của mình. Nhưng với tôi thì lại khác hoàn
toàn. Tôi có nhiều điều rất cách biệt với ông về mặt tư duy lẫn tính cách: tôi
chỉ đến với cuộc cách mạng cộng sản như một sự gặp gỡ trên đường đi tìm một lời
giải chung cuộc cho đời sống, vì vậy tôi không hề muốn và cũng không thể trở
thành một người hoạt động cách mạng chuyên nghiệp như ông. Vì thế khi từ giã
ông rồi, như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, tôi lại mon men trở về với cái tố chất
mang tính định mệnh của mình: mãi mãi đứng ra bên ngoài tất cả mọi guồng máy,
nhất là những định chế nhân danh những điều hào nhoáng để đè nén con người.
Thái độ ấy không phải lúc nào cũng có thể biện minh được trước thực tế nhưng
với tôi đó lại là một chọn lựa có tính chất nền tảng.
Sau ngày ông về
hưu và tiếp tục cuộc tranh đấu của mình trong hoàn cảnh mới, nhiều anh em đã
khuyên tôi nên đến thăm ông. Trong khi chưa có dịp thì do sự xếp đặt của Châu
Tâm Luân, tôi đã gặp được ông cùng với Võ Như Lanh ở một hiệu ăn bên khu Thanh
Đa suốt một buổi tối. Ông ôm tôi thật chặt và uống nhiều cốc rượu vang như ngày
trước đã uống nhiều ly bia với tôi. Ông vẫn nhường lời cho tôi và tôi vẫn huyên
thuyên đủ chuyện. Y như xưa, tiếng cười của ông vẫn thoải mái, hiền hậu, sự
chân tình ấm áp vẫn không có gì thay đổi. Mặc dù mọi thứ trên đất nước suốt 26
năm qua đã thay đổi nhiều và riêng tôi thì sự thay đổi lại quá nhiều mà chắc
chắn ông đã biết. Tôi đã bỏ Đảng từ lâu, tôi đã phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin,
phê phán cả Hồ Chí Minh và đủ thứ chuyện khác về cuộc cách mạng mệnh danh là
“vô sản” làm nền cho Đảng cộng sản Việt Nam. Không biết ông có đọc những gì tôi
viết hay không, nhưng tôi chắc ông không thể nào không nghe người ta tường
trình về nội dung những điều tôi đã viết. Bây giờ ngồi đây với ông, tuy thân
tình như cũ, tôi vẫn không thể biết ông đã nghĩ gì về những biến chuyển đó
trong tôi, kể từ cái hôm tôi từ biệt ông sau khi đã cùng ông đi xem chung một
tuồng Hồ Quảng ở Nhà hát Thành phố mà đến nay tôi hoàn toàn quên mất nội dung
của nó.
Một chai vang đã
cạn. Tôi lấy trong bọc ra cuốn sách tập hợp một số bài viết gần đây, tất cả đã
xuất hiện ở các website hải ngoại, được đặt cho một cái tên chung: Tưởng nhớ một người anh em, phổ
biến trong nước như một tài liệu chuyền tay và ký tên tặng ông. Lật qua vài
trang, ông bỗng hỏi tôi một câu mà từ khi biết ông tôi thấy ít khi nào ông hỏi:
“nghe nói Lữ Phương nghiên cứu nhiều về chủ nghĩa Mác phải không?”. Mặt đã hơi
bừng bừng một chút, tôi đã nói với ông những lời bỗ bã sau đây: “Anh Sáu biết
tại sao tôi quan tâm đến chủ nghĩa Mác như vậy không? Đó là do tôi nghe lời ông
Đồng và ông Duẩn, hai ông này luôn khuyên nhủ cán bộ phải học tập chủ nghĩa Mác
vì không hiểu chủ nghĩa Mác thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nghe lời hai ông đó, tôi đã quay mặt vào tường trong suốt 10 năm để tìm hiểu;
anh có biết sau đó tôi đã kết luận như thế nào không?”. Ông nhướng mắt lên và
hỏi: “Sao?” Tôi nhớ đã trả lời ông một cách tỉnh queo câu sau đây: Tôi nói hai cha nội đó chẳng biết
Mác là con mẹ gì hết! Không
tưởng tượng được! Sau khi nghe câu nói báng bổ đó của tôi, ông đã cười phá lên,
thoải mái như chưa bao giờ thoải mái đến như vậy! Không biết có đúng hay không,
nhưng cái bí mật về chủ nghĩa Mác-Lênin mà ông không khi nào nói đến mỗi khi
gặp tôi, dường như đã bộc lộ qua những tiếng cười của ông hôm đó.
Đó là kỷ niệm
cuối cùng tôi nhớ về ông để chỉ mấy tháng sau tôi nghe tin ông mất. Hôm tang lễ
của ông ở Hội trường Thống Nhất, tôi chỉ đứng ờ ngoài đường nhìn vào bên trong,
ở đó chắc hẳn ông đã có quá nhiều vòng hoa, nhiều lời ca ngợi, nhiều sự tiếc
thương và ông xứng đáng với những điều trân quý đó. Tôi không mang theo vòng
hoa nào cho ông, cũng không định viết một điếu văn về ông. Tôi chỉ đứng đó nhớ
tới ông như nhớ tới một con người đi chân đất, một con người mà chỉ với một lời
cam kết có tính chất cội nguồn, đã vượt qua được sự vây ép và khống chế của cả
một guồng máy khắc nghiệt được bảo vệ bằng những giáo điều xơ cứng, để giữ mãi
cho mình được mối liên hệ hồn nhiên với đông đảo những con người làm nên cái
mảnh đất ngàn năm của ông. Cũng vì lẽ đó, không màng đến sự vo ve của các ý
thức hệ chống cộng, dù không còn là cộng sản nữa, tôi vẫn bầy tỏ ở đây nỗi
tưởng nhớ đến ông như một trong những người cộng sản chân chính còn sót lại
trên đất nước hôm nay.
Sài Gòn 17.7.2008
LỮ PHƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét