GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG :
Đọc bài : Góp phần tìm hiểu sự thật về giáo sư
Nguyễn Lân của Lê Mạnh Chiến lược thuật và khảo chứng (Quê Choa 05/6/2014),
được biết thêm ít điều về ông Giáo sư nầy, nhưng buồn nhất là các vị ăn theo có
tên tuổi như GS Lê Trí Viễn, Vũ Khiêu… thất vọng tràn trề cho văn học nước nhà,
trong phần lược thuật và khảo chứng có giai thoại hay về Đường Bá Hổ (Trung
Hoa) xin ghi ra đọc chơi và biết thêm tài nghệ của ông Nguyễn lân vậy. (Gót
Phiêu Du)
……………………………………………………………………………………………
Nhà giáo Nguyễn Lân đã nhầm to khi
“dấn thân” vào lĩnh vực từ điển. Trong lĩnh vực này, ông thực sự là người yếu
kém nhất, với những lỗ hổng kiến thức không thể khắc phục.
Lời
giảng sai vẫn được ca ngợi là “nhất tự thiên kim”
Trong hơn 100 bài ca ngợi tài đức
tuyệt vời vô song của nhà giáo
Nguyễn Lân được đăng tải trong cuốn sách Vinh
quang nghề thầy cùng hai tập Ký yếu Hội thảo GS NGND Nguyễn Lân
với sự nghiệp trồng người (Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, 2006) và Kỷ yếu
Hội thảo NGND Gs Nguyễn Lân -
cuộc đời và sự nghiệp (Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, 2013), hầu như
tất cả mọi bài đều lặp đi lặp lại một số ý kiến dựa trên cảm tính, thiếu
hẳn những dẫn chứng cụ thể
đáng tin cậy vầ có sữc thuyết phục. Chỉ có vài đoạn có vẻ như đã đưa ra được
dẫn chứng về công lao và trí
tuệ kiệt xuất của nhà giáo Nguyễn Lân. Thứ nhất là đoạn nói về Từ điển từ và ngữ Việt Nam trong bàiNguyễn Lân và “mùa thu
vàng” sáng tạo của nhà báo
Hàm Châu mà độc giả đã biết. Thứ hai là câu chuyện sau đây trong bài Giáo sư Nguyễn Lân – Nhà sử học
thân yêu của chúng ta (trong Ký yếu Hội thảo NGND GS Nguyễn Lân,
cuộc đời và sự nghiệp)
Tác giả bài ấy kể:
Ngày ấy, vào những năm 60 của thế kỷ trước,
sau khi có được cuốn sách nhỏ Những
đề nghị cài cách của Nguyễn Trường tộ cuối thế kỷ
XIX (viết chung với Đặng Huy Vận, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,
1962), đem đến kính biếu Thầy, gọi là quả bói đầu mùa – công trình khoa
học của người học trò đã được
Thầy gợi ý và chỉ bảo tận tình. Sau khi đọc xong, Thầy đã viết thư cảm ơn (một
lần nữa) và đề nghị chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu “nhà cách tân lỗi lạc
và yêu nước nhiệt thành “
này. Rồi mấy năm sau, khi có dịp trở lại quê hương Nguyễn Trường Tộ, đến thắp
hương nơi khu mộ của ông (khu
mộ mà chính thầy đã xuất tiền ra xây nên từ năm 1942), tôi thấy ở đôi câu đối khắc
bên mộ, lâu ngày có một chữ Hán ở về bên trái bị lở sứt, có thể đọc lầm lẫn là
chữ cơ hoặc thân:
Nhất thất túc thành thiên cổ hận
Tái đầu hồi thị bach niên cơ (thân)
(Một lần sẩy chân ân
hận (đến) ngàn đời / Quay
đầu trở lại, cơ đồ (đã) trăm năm.)
hoặc: Một lần sẩy chân ngàn năm ân hận / Quay đầu lại đã trăm năm
thân mình.
Kể
ra, “thân” với “cơ” đều có nghĩa (hợp lý), vì thế, có nhiều người
đã nói chữ sứt lở đó là chữ thân (và ngay đến giờ đây, trong tập sach Vinh quang nghề thầy, anh bạn
Trường Phước vẫn viết là thân).
Nhưng tôi nghĩ chữ thân có lẽ không thỏa đáng, đến hỏi Thầy và
đã được Thầy giảng giải cho thật cặn kẽ cả nghĩa gốc của chữ cơ: cơ là nền,
là gốc... và nghĩa dẫn thân cơ là cơ đồ, là sự nghiệp, làvận mệnh của cả một vương triều v.v... Vế trên
của câu đối là hận(ân
hân) – từ chỉ sự
trừu tượng, thì vế dưới đối lại phải là một từ có tính chất cũng trừu tượng,
cho nên dùng chữ cơ (cơ đồ) là chuẩn xác và hợp lý hơn là
từ thân (thân thể). Rõ là đầy sức thuyết phục
Tôi nhớ mãi câu nói cảm ơn của tôi khi đó: Thưa
thầy! đúng là “Nhất tự thiên kim” vậy.
Trước hết, hai câu này không phải là
hai câu đối, mà phải coi là một lời than thở hay một sự đúc kết kinh nghiệm ở
đời, là những câu ở cuối
một bài thơ. Cái chữ bị sứt ấy, phải là chữ thân.
Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái
hồi đầu, thị bach niên thân. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần
hẫng hụt, một lần sa ngã) thì ôm hận mãi mãi. Ngoái
đầu nhìn lại thì mình chỉ còn cái thân già yếu . Rất đúng với tâm tư của người có
hoài bão lớn nhưng “lỡ thời”
Nếu thay chữ thân bằng chữ cơ, nghĩa là cơ nghiệp, là sự nghiệp, thì sẽ có:
Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái
hồi đầu,thị bach niên cơ. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần
hẫng hụt, một lần sa ngã) thì phải ôm hận mãi mãi. Ngoái đầu nhìn lại thì mình đã có
cơ nghiệp trăm năm . Như vậy
thì cái sự “thất túc”, cái sự “sẩy chân” kia chẳng
liên quan đến cơ nghiệp, chẳng gây nên hậu quả gì cả, chẳng đáng phải mang hận
mãi mãi.
Rõ ràng là, việc đặt chữ cơ ở cuối câu thứ hai (thay cho chữ thân) là một sai lầm
nghiêm trộng, một ý kiến thiếu suy nghĩ, sự biện luận cho ý kiến đó là một việc
làm gượng ép, vô nghĩa. Vậy mà cũng có vị PGS TS đành giá là “nhất tự thiên
kim”. Theo các từ điển Từ
nguyên và Từ hải thì thiên kim 千金 nghĩa là một ngàn cân vàng, mà mỗi cân ở Trung
Quốc từ thời Đường bằng 666g, sau đó giảm dàn, đến thời Thanh là 596g và hiện
nay quy định là 500g. Hóa ra, một chữ suy luận sai rành rành của nhà giáo
Nguyễn Lân cũng có giá hơn nửa tấn vàng cơ đây!
Phải chăng, vì quá yêu mến, quá tin tưởng ở
trí tuệ của Thầy, hay là vì hiệu ứng đám đông, khi đã khen ai thì mọi người cứ
xúm vào khen thật hết lời, cho nên sau hàng chục năm mà vị PGS TS này vẫn không
nhận ra cái sai rành rành của ông Thầy?
Xin nói rõ về xuất xứ của hai câu
thơ kia. Nguyễn Trường
Tộ
Nhà danh họa kiêm học giả, thi nhân
nổi tiềng đời Minh là Đường Dần đã viết: Nhất
thất túc thành thiên cổ tiếu 一失足成千古笑, Tái hồi đầu thị bách niên nhân 再回头是百年人(Một lần sảy chân, trở thành trò cười
mãi mãi. Quay đầu nhìn lại thì mình đã trở thành người già cả. Đó là sự chiêm nghiệm của tác giả về
cuộc đời của mình.
Đường Dần 唐寅 (1470 – 1524) còn gọi là Đường Bá Hổ,
quê ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô, là người thông minh, học giỏi. Năm 1498, đỗ Giải
nguyên (đỗ đầu Cử nhân) tại trường thi ở phủ Ứng Thiên (Nam Kinh). Năm sau, ông
cùng đi với người bạn tên là Từ Kinh 徐 經 đến kinh đô để thi hội. Ông làm bài rất
tốt, quan chủ khảo là Lễ bộ Thị lang Trình Mẫn Chính 程政敏 rất phục tài, nhưng người ta phát hiện ra việc
Từ Kinh đút lót tiền cho tên đầy tớ của quan chủ khảo để lấy đề thì
nên ông cũng bị vạ lây, bị nhốt vào ngục và bị
tước danh hiệu Giải nguyên. Về sau, triều đình xét thây ông vô can nên được trả
lại danh hiệu Giải nguyên nhưng đã lỡ mất kỳ thi lần này. Từ dó, ông chán ghét
con đường thi cử, quyết từ
bỏ con đường công danh, chỉ thích
du ngoạn, vẽ tranh và làm thơ. Tuy không bước vào làng khoa bảng và không làm
quan to nhưng ông rất nổi tiếng, được người đời xếp vào nhóm “Minh tứ gia”, gồm
bốn nhà danh họa nổi tiếng nhất dưới thời nhà Minh. Bởi vậy, đối v ới ông, sự
“sẩy chân” trở thành “trò cười mãi mãi”. Phải chăng, vì rất nổi tiếng nên ông
thấy mình đã trở thành “bách niên nhân” nghĩa là người sống lâu (theo nghĩa
bóng), mặc dầu tuổi thọ của
ông không cao.
Đến
đời Thanh, tiểu thuyết gia Ngụy
Tú Nhân 魏秀仁 , tức Ngụy Tử An魏子安 (1819 – 1873) đã cải biên hai câu thơ
kia của Đường Dần, thành
ra Nhất thất túc thành thiên cổ hận 一 失 足 成 千 古 恨,Tái hồi đầu thị bách niên thân 再 回 頭 是 百 年 身 để làm hai câu cuối ở một bài thơ “thất ngôn
bát cú” trong tiểu thuyết Hoa
nguyệt ngấn 花月痕. Toàn văn bài thơ như sau:
Phương tâm phạ tải xuân sầu trọng,
Hoa
lý tương tư nhượng dữ quân.
Địch tận thiên niên
tiêm thướng mộng,
Quân tâm ưng tự ngẫu linh lung.
Tương
tư vị tất năng tương kiến,
Dạ vũ xuân sầu vạn điểm hồng.
Nhất
thất túc thành thiên cổ hận,
. Tái hồi đầu thị bách niên thân.
Hai câu do Ngụy Tú Nhân cải biên từ thơ của
Đường Dần đã được người đời truyền tụng vì có tính khái quát cao, có thể vận
dụng cho rất nhiều người, vì mấy ai từng gặp hoạn nạn mà về sau được vinh dự
như Đường Dần? Hẳn là, khi
còn sống, Nguyễn Trường Tộ.và những người đồng cảm với ông thường nhắc đến hai
câu thơ “cải biên” này.
LÊ MẠNH CHIẾN (Quê Choa )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét