người sưu tầm
TRỊNH-KIM-THUẤN
Không nhớ rõ năm 1942 ấy đã
đi đến tháng thứ bao nhiêu. Chỉ nhớ chắc rằng chuyện xẩy ra khoảng mùa Hạ.Vì,
nếu không phải mùa Hạ, thì sao có mục “Dạo mát bên bờ sông Thương” và mục “Ngồi
quạt cho người đẹp tỉnh Đông” chứ !
Chiều hôm đó, Hoàng định lên
Bắc Ninh, thăm “Biệt phòng” ở xóm Niểm. Mà phải nghĩ đến chuyện nầy, là trong
túi đã xu, hào không còn rủng rỉnh nữa. Cần một chỗ nằm yên, có người cung
phụng đủ thứ và rủ rỉ đôi lời ân ái suông !
Ai ngờ, cái số thật trớ trêu
! Vừa ra khỏi căn nhà phố hàng Cót, để tiến đến ga Đầu Cầu, thì đụng ngay hai
gã : Tô Hoài, Nguyễn Bính.
Tác giả “Lỡ bước sang ngang”
tự mắc luôn vào Hoàng, điều nầy đâu có lạ gì đối với nhà thơ cát bụi ấy. Lạ là
lạ ở chỗ anh chàng mặt trắng, hiền lành như con gái kia là Tô Hoài, cũng nhất
định xin kết làm bộ ba “Giang hồ vặt”.
Hoàng cảm thấy hơi nguy, cái
nguy của cả một cái đầu tàu đang lúc cạn than, củi. Không lẽ chạy toàn bằng
nước lã hay sao ?
Nhưng, đã đi thì phải đi cho
trót. Đến đâu thì đến đâu. Hãy biết một điều : Không mất tiền mua vé cũng cứ
“đi” và cứ “đến” được. Hoàng quen khắp mặt các “xếp tanh” (chef de train) trên
quãng đường sắt nầy mà !
Bính và Tô Lang thích thú
lắm, mặc dầu riêng chàng Tô có hơi run …
Bánh sắt quay thong thả,
chừng 30 cây số giờ, nhưng rồi thoáng cái đã đến ga Bắc Ninh lúc nào không
biết.
Trên sân ga chỉ thưa thớt mấy
chục hành khách ; Hoàng nhận ra ngay trong số những tà áo tung bay phất phới
một dáng vẻ quen quen. Thì vừa đúng dịp đôi mắt lá răm nhìn lên và tiếng reo
lớn được ném ra, át cả tiếng “ sình … sịch …” của máy hơi nước .
“ Anh Hoàng đấy hả ? Chị
Tuyết vừa xuông Hà Nội rồi ! Em ra đón người quen nhưng chưa thấy bóng vía đâu
cả. Anh xuống chứ ?”.
Hoàng đẩy vội hai ông bạn quí
vào trong toa rồi cũng vào theo và ló đầu ra ngoài khuôn cửa, nói một cách uể
oải lừng khừng :
“Xuống làm gì bây giờ ? Thôi
để ít hôm nữa Tuyết nó về hẳng hay “
Cô đào rượu ở nhà hát của
Tuyết xóm Niểm nhe răng cười, có vẻ thông cảm lắm.
Cờ lại phất , còi lại thổi và
chuyến xe tiếp tục lên đường, đem theo ba gã hành khách bất đắc dĩ …
Nhưng chỉ một giờ đồng hồ sau
thì đến chỗ sơn cùng thủy tận. Vì chuyến xe lửa nầy chỉ đi đến phủ Lạng Thương
là hết nhiệm vụ. Mà đây là phủ Lạng Thương rồi. Nguy chưa !
Đành kéo nhau xuống vậy. Mặt
trời cũng đang xuống. Màu nắng quái lê thê trên tỉnh lỵ Bắc Giang. Ngày mùa Hạ
dài thật. Và như thế, đêm nay sẽ ngắn. Lời tục nói “Tháng năm chưa nằm đã sáng”
âu cũng là một điều may cho Hoàng.
May nữa là Tô Hoài chợt nhớ
ra một người, chắc chắn đang có mặt trong dãy phố yên tĩnh của phủ Lạng, sông
Thương. Người ấy là Bàng quân Bá Lân, có nhiều thơ đăng báo và in thành sách,
lại có nhà cửa, ruộng nương, đồn điền trang trại, khét tiếng vùng nầy.
Khốn nỗi cả ba đều chẳng ai
từng có dịp nhất kiến với ông bà họ Bàng cả. Không biết quấy rầy người ta có
tiện chăng ?
Nhưng suy đi, xét lại, đằng
nào cũng là trong văn giới với nhau “Tương phùng hà tất tằng tương thức”, Bạch
Cư Dị chẳng đã bảo thế là gì ! …
Quả nhiên khi gặp nhau, chẳng
một ai bỡ ngỡ ; khách thì rất tự nhiên, mà chủ thì cười nói liên hồi, ra chiều
thích thú, an nhiên tự tại lắm.
Rồi cơm được bưng ra, khả dĩ
ăn no bụng. Câu chuyện thơ văn cũng được đề cập, khả dĩ thêm hương vị cho chén
trà mạn đàm …
Và rồi chủ nhân mời khách
cùng ra đường : “ Chúng ta đi dạo phố một lát cho tiêu cơm. Đến cầu sông Thương
sẽ quay về ngủ cũng còn sớm chán !”.
Câu nói giản dị nầy đã tác
động đến ba chiều hướng khác hẳn nhau trong tâm lý rất phức tạp của bộ ba Hoài,
Hoàng, Bính.
Chàng Tô thì mãn ý quá, nhà
văn thư sinh nầy chỉ phiêu lưu theo kiểu Dế mèn, bỗng nhiên được ngao du không
mất tiền, lại được ăn ngon và hứa hẹn một giấc ngủ kỹ, thế là nhất rồi !
Còn Hoàng, chẳng vui chẳng
buồn. Chương trình dự định đã sai bét cả, thôi đành lẽ phó cho Định Mệnh đẩy đưa.
Đối với Hoàng cái tỉnh lỵ Bắc Giang nầy quá quen thuộc. Cả đến con sông Thương
nước chảy đôi dòng kia, đục phía nào, trong phía nào Hoàng nhắm mắt cũng thấy
được. Lại thấy cả trong ký ức những nhà ai, nhà ai nơi xóm hát bên kia cầu !
Nhưng thôi, gió chưa lên hãy dạo mát đôi ba vòng rồi về ngủ cũng tạm ổn. :Đáo
giang tùy khúc, nhập gia tùy tục” mà !
Tuy nhiên , Bính thì hận lắm.
Nhà thơ này cứ tưởng thế nào chủ nhân cũng đãi một chầu hát linh đình, gọi là
đánh dấu cuộc hội ngộ “Tứ bất tử” mới đích đáng chứ ! Đi khắp thiên hạ, mòn gót
giày, gẫy bánh xe, để tìm “tri kỷ”, mà “tri kỷ” lại bảo dạo phố rồi về ngủ sớm,
trước 10 giờ tối, hỏi ức không ?
Thế rồi lỉnh kỉnh suốt đêm
hôm ấy, Bính cứ thức dậy hút thuốc lào vặt hoài.
-
Lắm muỗi quá
Hoàng nhỉ ?
-
Ừ ! thì lắm muỗi.
Ở đây gần rừng rồi mà ! Phủ Lạng còn khá đấy, chứ lên chút nữa như Bố Hạ, Bắc
Lệ thì phải biết. Thiếu màn không nhắm mắt được đâu !
-
Thế mà Tô Hoài nó
ngã lưng xuống là “kéo gỗ “ liền, chịu
thật !
-
Thì đang sức ăn
ngủ của người ta .
-
Đành rồi ! Nhưng
chúng mình khác. Làm thế nào cho qua được đêm nay đây ? À, Bính với Hoàng liên
ngâm một bài chơi đi. Thử lấy vần điệu làm binh lực phá cái thành Sầu nầy xem
sao !
-
Phá thì phá. Ra
quân trước đi ! Cho nó “ Lỡ bước …” một thể .
-
Khó gì. Đây câu
đầu : Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương.
-
Vần nầy dễ, Hoàng
đối lại đây : Còi thét vào ga phủ Lạng Thương.
-
Hay, tiếp câu ba
luôn đi, rồi Bính sẽ đối cho thành câu bốn và ném cả câu năm ra liền.
-
Thong thả ! Ý thì
sẳn, nhưng vận dụng chữ nghĩa hơi khó, À đây rồi : Sở tại bàng quan chầu xuống xóm.
-
Chữ “ bàng quan “
nhẹ quá, nhưng chữ “Sở tại “ thì hay, hay ! Bính đọc tiếp câu bốn, câu năm nhé
!
Nói vậy thôi, chứ Bính lay
hoay mãi, hút đến cả chục mồi thuốc lào và bị Hoàng giục đến lần thứ ba rồi
Bính mới cười vang lên và lấy giọng đọc :
Thi nhân bá ngọ
chuyến lên đường,
Hai dòng trong
đục thêm ngao ngán,
Hoàng trầm ngâm một phút :
Dùng chữ “bá ngọ”, người ta tưởng mình là sư thì sao ? À mà “ Anh hùng mạt lộ
bán vi tăng “ (1) làm “sư một nửa” thì
“bá ngọ” được lắm ! Nhưng “hai dòng trong đục” khó đối cho Hoàng quá ! Đề nghị
sửa thế nầy đây :
Dòng trong dòng đục thêm ngao ngán
và Hoàng sẽ đối : Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương.
Bính nhảy dựng lên : Tài lắm.
Gợi cảm đến chết người ! Hoàng làm cho Bính càng hận vô tả. Nghe rõ từng tiếng
đàn đáy đang “chùm chín, chùm xanh” ở bên tai ….
Thế rồi cả hai cùng nằm xuống
giường nghĩ nốt hai câu kế. Loanh quanh thế nào ngủ quên mất. Chắc chắn Bính
ngủ sau Hoàng.
Mãi đến khi cáo biệt Bàng
quân ra ga phủ Lạng để “ hồi đô” mới hoàn tất được bài Liên ngâm, trước sự ngạc
nhiên của tác giả “O chuột” và “Dế mèn phiên lưu ký”.
Chép lại toàn bài như sau :
Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương.
Còi thét vào ga phủ Lạng Thương,
Sở tại bàng quan chầu xuống xóm.
Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường,
Dòng trong dòng đục thêm ngao ngán,
Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương.
Nằm muỗi qua đêm chờ sáng vậy !
Còi xe Phong hỏa xé màn sương !
Cái hận “thiên trường địa
cửu” nói trên, ngay chiều hôm sau đã rũ được. Thật ra đó chỉ là cái hận của
Bính, chứ Tô Hoài khi chia tay ở khởi điểm (ga Đầu Cầu) để lấy xe điện về Bưởi,
đã tỏ ra mười phần thỏa mãn. Còn hẹn với Hoàng lần sau tiện dip cứ đem theo.
Nhưng về phần Hoàng, chẳng
đến nỗi hận như Bính, đã đành, thế mà vẫn cảm thấy nó như thế nào ấy. Làm đầu
tàu mà đi giang hồ ảo như vậy, cũng đủ mang tiếng “chí lớn tài sơ” rồi còn gì !
May sao, cặp Hoàng – Bính vừa
đi đến Bờ Hồ thì Chu Ngọc ở đâu hiện ra, đầu chải bóng chứ không bù xù như mọi
khi, lại cả giày cũng bóng lộn nữa .
-
Hai ông biến đi
đâu mà từ chiều qua đến giờ tìm đảo thiên, đảo địa khắp nơi không thấy ?... Đi
! Lên xe cho mau. Anh em đang đợi ở nhà Chu
thị.
Ngọc còn nói nhiều nữa lúc bộ
ba đã nhẩy lên hai chiếc xe kéo, trực chỉ xóm Khâm Thiên.
Tuy vậy, Hoàng đã có nhiều kinh nghiệm với anh chàng Ngọc nầy quá rồi.
Hắn mời đi nghe hát, đừng có vội “tưởng bở”.
Y như rằng ! Hắn và Vũ Trọng
Can đã “cháy” ở nhà Chu thị từ hai hôm. Sáng
nay ông Can đã lấy được của Bắc Kỳ Kịch đoàn (do Claude Bourrin) một số tiền về
tác quyền mấy vở thoại kịch mà ban nầy đem đi lưu diễn các nơi. Vừa đúng cơ hội
người ta quay về Hà Nội nghĩ chân thì ông Can tìm đến đòi … thanh toán .
Nhưng số tiền cũng chẳng lớn
bao nhiêu. Trang trãi hai hôm trước thời còn dư chút ít, mà nằm ỳ lại đêm nay
thì nhất định thiếu mất rồi. Dở dang quá !
Bắt được Hoàng ở Bờ Hồ, Ngọc
như bắt được của. Lý do là trong số mấy anh em nhà văn lêu têu, chỉ riêng Hoàng
có “công ăn việc làm” đều đặn, mỗi tuần lễ xuống Hải Phòng dạy hai ngày tại một
tư thục lớn, mà hai ngày là 16 giờ, tính thành tiền được ngót 30 bạc rồi. Giá
tiền một chầu hát bẩy hay tám đồng thôi, làm gì không trả được. Không sẳn tiền
đem theo cũng không hề chi, nói một câu là “bà chủ” cho khất liền. Nhất là khi
“bà chủ” lại nhiều cảm tình với bọn văn nhân như Chu
thị.
Dầu sao, hôm nay đã thứ bẩy.
Nội nhật ngày mai Hoàng phải có mặt ở Cảng để thứ hai , thứ ba còn dạy học chứ
!
Quả nhiên mọi việc đâu vào
đấy cả ! Giữa trưa hôm sau – chủ nhật – Hoàng từ biệt Dì Năm, đem theo cả Bính
và Ngọc xuống Cảng. Riêng Vũ Trọng Can, còn có hẹn với nhà xuất bản nào ở Hà
Nội không biết, nên đành chia tay.
Xuống đến Cảng là vững. Chỗ
“làm ăn đứng đắn” của Hoàng kia mà ! Huống hồ nhà thơ Lan Sơn, bạn thân của
Hoàng tại đó, lại sẳn một Gia ca thất, có túng quá thì “hát nhà – hát nhà” chứ
sao ! Đủ lệ bộ hết. Trống, phách, đèn, đóm … tha hồ.
Nguyên ủy cũng ly kỳ lắm. Nhà
thơ tác giả “Anh với Em” trẻ tuổi mà tài cao, mới 20 tuổi đầu đã thi đỗ ông
Phán tòa Đốc lý. Rồi cưới được người mình yêu. Hạnh phúc nhất thiên hạ. Biết
đâu ông trời ghen ghét : giữa đường đứt gánh phu thê, nhà thơ lãng mạng nầy
bỗng hóa thân thành một bông lan ủ rũ. Mà ủ rũ ghê gớm, một hai những tưởng
hương chìm, cánh rụng trong … hang. Nhưng rồi Nàng Tiên của Động Nâu mơn trớn
thế nào mà Lan dần dần phục hồi được sinh lực, hay nói cho đúng hơn, lòng yêu
đời. Lan đã tục huyền với một danh ca tỉnh Đông và tổ uyên ương nơi đồng chua
nước mặn lại có bàn tay ngà săn sóc.
Hoàng xuống Cảng từ đầu năm
1941, thời thường vẫn là thực khách của hai vợ chồng rất “nghệ sĩ” nầy.
Một ngày kia, Lan tâm sự :
Mình sắp trở thành “bác trai” đây .
-
Hả ?
-
Đừng ngạc nhiên …
! Cô nàng cứ đòi ra mở nhà hát. Lý luận rằng : Trước kia ở đây chỉ có xóm Quán
Bà Mau độc chiếm thị trường, mặc dầu khá xa trung tâm thành phố, bây giờ xóm
Quần Ngựa lác đác có mấy nhà mở, đông khách vô cùng, vì lẽ nó gần lại khang
trang hơn. Cô nàng bảo đó là dịp tốt. Sẳn vốn liếng, tiền bạc, giọng ca , xuân
sắc và cả đàn em nữa – tội gì không ra thi thố với đời ?
-
Thế cái nhà dột
trong ngõ hẹp nầy, anh trả lại à ?
-
Không, chỉ có
nàng phải lên trên xóm Quần Ngựa trông nom thôi chứ. Còn mình thì đi đi, về về
…
-
Một chốn đôi quê,
mệt nhỉ ?
Nói thế thì nói, chứ Hoàng
không chính thức góp ý kiến gì cả. Lan trở thành “bác giai”, càng vui có sao
đâu ?
Còn Nguyễn Bính và Chu Ngọc
thì đích thật là số đỏ. “Nhà hát nhà” của Lan Sơn vừa khai trương được hai tuần
xong, đang hồi thịnh đạt. Bạn làng văn từ Hà Nội xuống, cứ việc thiết lập “Hành
đô”. Gió nổi lớn càng hay, bằng không, Hoàng và Lan sẽ chia nhau gánh chịu phí
tổn. mỗi người một nửa, “bà chủ nhà hát” không phiền hà gì. Còn làm mối cho bạn
cô nầy, cô kia là khác ấy chứ !
Dầu sao, Hoàng cũng phải lo
chu tất mọi chuyện. Hiện kim chưa có được ngay, phải khất lại đến giữa tháng
mới ký “bông” ở trường học được, thì cũng là hát “cháy” còn gì !
Huống hồ Bính lại bảo : “Cây
nhà lá vườn mãi, chán chết. Phải xuống Quán Bà Mau một phen mới vơi nổi cái sầu
vạn cổ nầy “.
Thế là đám “cháy” lan rộng ra
mãi, dập tắt sao cho hết được bây giờ ?
Bởi thế, Hoàng mới hạ bút một
bài Mưỡu Nói tạm lấy chữ “Cháy” làm nhan đề :
Từ đêm Chu Thị cháy nhà.
Cháy từ Hà Nội, cháy ra
Hải Tần.
Cháy xa thôi lại
cháygần.
Một phen dụng hỏa, mấy
lần cầu phong !
Cháy hoài,
cháy hủy .
Gió không nhiều, âm ỉ
cháy lan man.
Dụng hỏa công tài nghệ
lẫn Chu lang.
Trí dũng vượt Trương
Lương cầu Sạn đạo.
Tam nguyệt Hàm
dương tro lạnh lẽo,
Tử vi Bàn Cốc khói lưa
thưa.
Thuyền, cầu , hang,
cung điện hỡi mấy ngàn xưa !
Đây cuộc cháy hãy còn
to thập bội !
Ấy ba gã tuềnh toàng cùng một hội.
Chẳng đường hẻm lau
khô, cũng không cần gió nổi,
Cháy từ đêm Hà Nội,
cháy loang ra …
Lửa chơi,
ai dập cho bà ?
Hoàng xuống Hải Phòng đã được
bốn hôm, Đám cháy lan rộng có nguy cơ nguy khốn , thì may quá – một cái may bất
ngờ - Chu Ngọc đi lêu têu thế nào lại vào đúng đường dây của một ông chủ rạp
hát đang muốn làm việc nghĩa. Việc nghĩa theo nghĩa đúng. Nghĩa là : Trình diễn
một buổi kịch long trọng lấy tiền giúp vào việc chẩn tế các nạn nhân bị thiên
tai quanh vùng đất Hải Kiến thì phải.
Tuy tham dự vào nghĩa cử cao đẹp nầy, ban kịch của bộ ba Ngọc – Hoàng – Bính
vẫn được hưởng thù lao tương xứng, và nhất là được ngừoi tổ chức đưa trước một
số tiền để sửa soạn các thứ : diễn viên, y phục, bài trí …v…v….
Chu Ngọc vui như trẻ con được
cho kẹo, nói cười huyên thuyên : Kịch thì sẳn rồi. Một kịch xuôi – Thế Chiến
Quốc của Trần Tử Anh (3) và một kịch thơ – Bóng Giai Nhân (4) của Nguyễn Bính.
Chỉ còn lo mấy chuyện lặt vặt. Nhưng có hai việc phải làm ngay : Việc thứ nhất
: Chọn một danh xưng cho ban kịch mới, chẳng lẽ gọi Ban kịch bộ ba, hay Ban
kịch Ngọc – Hoàng – Bính !
Khó gì ! Hoàng góp ý kiến :
Chúng ta đã nổi gió từ Hà Nội bốc xuống đây, thì cứ đặt phăng là Ban Kịch Hà
Nội và lấy Tháp Rùa làm huy hiệu ấn tín cho nó hách một thể ,
Đúng ! còn việc thứ hai là :
Dời khỏi nơi nầy gấp. Nằm lâu quá ê ẩm cả xương cốt, chúng ta phải ra Đồ Sơn
tắm biển mấy hôm cho sạch sẽ, mát mẻ đôi chút, rồi mới bắt tay vào việc được.
Bính không phản đối, nhưng
xem ra muốn nằm lỳ ở Quán Bà Mau hơn là đi tắm biển . “Trưởng giả quá “ Bính
vừa nói, vừa bỉu môi .
Tuy nhiên , người cầm tiền
bây giờ là Chu Ngọc. Hoàng tạm thời nhường lại cái chức “Đầu tầu” cho y. Bính
có nhõng nhẽo với Hoàng cũng vô ích. Huống chi Hoàng cũng đang muốn nhổ neo vì
ở Đồ Sơn. Hoàng cũng lưu lại nhiều cảm tình, vô số người đang muốn gặp để kéo
đi ngồi nghe sóng biển, mơ dựng những lâu đài bằng cát cho tương lai ….
Thế là bộ ba tạm sống được 48 giờ lành mạnh ở bãi biển, ra
cái điều cũng “vui vẻ trẻ trung” , không thua gì thiên hạ đâu !
Nhưng đến giờ thứ 49 thì …
đành hàng. Chịu không nổi nữa cái mặt đưa đám và cái giọng ngâm thơ dứt ruột
của Bính. Chừng như suốt bao đêm hát “cháy”. Bính chẳng tìm được cặp mắt nào
gọi là xanh xanh một chút cả. Cô nào cũng nông cạn, vô duyên đến phải khóc thét
lên ! Cặp mắt đã vậy, tấm lòng thì :
Lòng
em như chiếc lá khoai .
Đổ bao
nhiêu nước, ra ngoài bấy nhiêu (5).
Lời Chu Ngọc : Bính nó khổ
quá ! Thôi bọn mình “bốc” về Hà Nội đi. Cho nó nằm một chỗ nào thật vững, rồi
chúng mình còn lo công việc chứ !
Được lắm ! Bính cướp lời,
nhưng không về Hà Nội mà ghé Hải Dương kìa !
Sao lại Hải Dương ? cả Ngọc và Hoàng cũng hỏi dồn dập. Hải Dương
thì khác gì Hải Phòng ?
Bính nháy mắt : Bí mật chưa
thể tiết lộ. Hai ông hẵng cứ biết là đưa Bính xuống tỉnh Đông cái đã. Tới nơi
rồi khắc biết lý do.
Chu Ngọc , một nhân vật khá
đặc biệt trong giới Văn lâm. Vì thật ra , Ngọc chẳng hề viết một bài văn nào,
chứ đừng nói chi đến xuất bản thành sách. Thế mà Ngọc quen hầu hết anh chị em
trong làng và chẳng bị một ai ghét bỏ hay phủ nhận. Ngọc khoe với Hoàng rằng đã
từng viết nhiều bài báo, phê bình phim “Cánh Đồng Ma”, lý luận xác đáng và
phong phú đến độ thiên hạ mặc nhiên coi Ngọc như một chuyên viên sân khấu. Rồi
Ngọc tự phong cho mình cái danh hiệu “Đạo diễn”, thì Hoàng cũng biết vậy thôi,
và lẽ dĩ nhiên, Ngọc sẽ là Đạo diễn của Ban kịch Hà Nội, sẽ phụ trách dựng hai
kịch : “Thế Chiến Quốc” và “Bóng Giai Nhân”.
Trong bộ ba Hoàng – Ngọc –
Bính. Ngọc là người thực tế nhất : không gặp đâu hay đó như Hoàng, không đau
khổ vớ vẩn như Bính. Cho nên khi xe lửa tiến vào ga Hải Dương, Ngọc tính toán
rất kỹ :
- Qua đêm nay, mai tôi về Hà
Nội sớm. Bảo cho Lê Trọng Quỹ biết để hắn liệu thủ vai Ngô Thì Nhậm trong vỡ
“Thế Chiến Quốc”, Ngọc Đĩnh sẽ thủ một vai quan trọng khác : vai Đặng Trần
Thường, những vai còn lại, ít quan trọng, thế nào trong 24 giờ cũng tìm ra. Chỉ
lo vỡ “Bóng Giai Nhân”, vì đó là Kịch Thơ , một hình thức sân khấu còn xa lạ
đối với khán giả, nhất là khán giả nơi đồng chua, nước mặn vốn là một cửa biển,
thích hợp với kỹ nghệ, thương mãi hơn là chuyện thơ , phú, văn chương. Nhưng
cũng may ở điểm kịch “Bóng Giai Nhân” chỉ có ba vai rưỡi …(mời
xem Bóng Giai Nhân và Nguyễn Bính của Mộng Tuyết- Thất Tiểu Muội trên Gotphieudu.blogspot.com ngày 6/6/2013)
Sao lại … rưỡi ?
Thì cái vai Giai nhân đó. Chỉ
là bóng thôi, chỉ xuất hiện trên sân khấu, dạo qua, dạo lại mấy lần thôi, chứ
có nói một lời hay ngâm một câu thơ nào đâu. Khoản ấy đỡ mệt cho mình lắm nhé !
Nhưng còn ba vai kia ?
Đều là vai nam cả. Bính , tác
giả sẽ sắm vai Lý Đạt, thợ đúc gươm. Hoàng thì sắm vai tráng sĩ đi tìm mua gươm
báu. Ổn quá rồi. Chỉ còn việc về Hà Nội tìm người thủ vai Đạo sĩ nữa là xong.
Mà vai nầy nhẹ Kim nó thủ được đấy !
Kim nào ?
Trần Huyền Trân ấy mà (6).
Ừ ! cứ cho là được đi .
Vậy ông Bính chỉ chổ hiện nay
vở kịch để ở đâu, tôi về Hà Nội lấy đem xuống ngay, nội nhật ngày mai thôi. Ông
và ông Hoàng sẽ tập dượt với nhau đi, càng xong sớm càng tốt. Mà … mà …Bính là
tác giả tất phải thuộc ít nhiều chứ ? Ngay ngày mai, trong lúc vắng tôi, hai
ông có thể bắt đầu tập dượt theo phép “truyền khẩu” được rồi .
- Diễn kịch chứ đi ăn cướp
đâu mà gấp thế ?
- Còn khó hơn đi ăn cướp nhiều.
Không gấp sao được ! Nhưng nói vậy thì nói chú, ai dám ra lệnh cho các ông !
Từ nãy đến giờ, độc chỉ có
Hoàng đối đáp với Ngọc, còn Bính chỉ ậm ừ, vì bao nhiêu tâm trí còn để vào cả
việc “thu lối Thiên Thai”. Bỗng nhiên, Bính dừng bước, ngó quanh, ngó quẩn, xác
định phương hướng, rồi reo lên :
Đây rồi !
Thì ra, hôm còn ở Cảng, Bính
đã tỉ tê thế nào, chả biết nói thế nào với Lan Sơn phu nhân, nên được giới
thiệu ngay nhà bà Nghị ở xóm Đầu Ghi … nơi xuất thân, trước khi về làm vợ một
thi sĩ nổi tiếng, đã từng được Thế Lữ ca ngợi trên tuần báo “Phong Hóa” từ năm
xửa, năm xưa, cái thuở ban đầu của phong trào Thơ Mới .
Nhà bà Nghị quả nhiên sang
thật. Tủ chè, sập gụ, câu đối, hoành phi bóng lộn. Các em đào nương lố nhố đến
cả chục, đủ cỡ tuổi từ trăng tròn đến trăng khuyết, trăng tàn lụi, trăng vô
ảnh, vô tung ….
Đích thân bà Nghị ra nói
chuyện, mời uống trà và hát một bài cho quý khách nghe. Giọng hát vững thật,
không trách từ 30 năm trước, bà đã nức tiếng danh ca, khiến cho ông Nghị viên
tỉnh Đông nầy say như điếu đổ, phải cưới làm “đệ nhị phòng”.
Nhưng điều đáng kể nhất là cô
con gái của ông Nghị- bà Nghị : Cô Hoài. Một con người ngọc, thanh sắc lưỡng
toàn lại thông thạo chữ nghĩa, tiểu thuyết của Khái Hưng, của Ngọc Giao, của
Thanh Châu … ném tứ tung ngũ hoành khắp giường ngủ, bàn phấn .
Kịp đến khi người ngọc ra
ngồi gieo phách thì – nếu Hoàng không lầm – cả bộ ba đều bị tiếng sét ái tình
giáng xuống cân não ….
Hồng
Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào chưa
biết cái chi chi …. (7).
Giọng của người ngọc tất phải
là giọng ngọc rồi, có khen cũng bằng thừa .
Tiếng sét ban đầu truyền điện
ra càng mạnh, Thế nầy thì không khéo cả ban kịch Hà Nội với huy hiệu Tháp Rùa
cũng bị đánh tan mất !
Nhưng còn may là Chu Ngọc mãi
đang tính toán việc dựng kịch, nên chỉ sét đánh ngất ngư. Nằm ngay đầu sóng,
ngọn gió là Hoàng với Bính, lại thêm ngọn đèn thần ở giữa hai ngọa khách nầy,
khiến cho tiếng sét bổ xuống, gặp lửa càng phản kích sang hai bên. Hoàng và Bính
nhận ra tiền thân họ Lưu, họ Nguyễn. Chỉ phiền nỗi động Tiên có độc một nàng
Tiên mà thôi ! Ác thế chứ !
Ác nhất là mai đã lại chủ
nhật rồi, mà chủ nhật tức nhiên Hoàng phải có mặt ở Cảng để thứ hai còn đi dạy
học. Vả chăng còn phải ký “bông” trang trãi mọi thứ và giữ chút đỉnh làm vốn
liếng. Ít ra cũng tối thứ ba mới tái đáo Thiên Thai được. Hận không ?
Hình như Bính đã biết rõ
những điều ấy hay sao mà coi bộ đắc ý lắm.
Xóm GHI không có điện – điện
hiểu theo nghĩa đen- nên không có quạt máy, nóng quá đi mất ! Lại cái đèn “
măng xông “ treo giữa nhà càng tỏa ra một nhiệt lương kinh khủng. Người ngọc
với mặt hoa nhễ nhại mồ hôi thì đứt ruột
cho kẻ si tình biết mấy ! cho nên Bính cứ phải “ … anh hầu quạt “ (8) luôn
bên cạnh. Chả biết “lòng anh” có “mở với quạt nầy” không ? nhưng lòng em “ như
chiếc lá khoai “ thì phải, Nghĩa là cô Hoài vẫn có vẻ khủng khỉnh thế nào ! Ít
nói quá, chỉ cười chiếu lệ thôi.
Hoàng đang hận về cái mục
trưa mai phải tạm thời “xuống núi” nhìn thấy cảnh đó càng nóng mắt, đã tính bảo
cô ta vào nhà trong đi nghĩ cho được việc.
Nhưng chưa kịp mở miệng thì
bà Nghị đã ra xin phép cho cô con gái trở gót phòng loan. Đồng thời cũng ra
lệnh cho đám “con nuôi” quạt màn để “các ông ấy” yên giấc.
Đêm nay, hẳn tác giả “Lỡ bước
sang ngang” phải hút thuốc lào vặt nhiều hơn cái đêm “Bắc Giang nằm muỗi”.
Theo đúng kế hoạch, sớm hôm
sau Chu Ngọc lên đường từ lúc gà gáy.
Hoàng ngủ lỳ đến 11 giờ và
toan ngủ nữa, nhưng Bính lôi dậy cho kỳ được, để Hoàng còn ra xe di Hải Phòng
chứ ! Tử tế quá !!!
Hoàng biết vậy, bèn chỉnh đốn
y phục, ăn uống qua loa, rồi chậm rãi nói chuyện với “ông bạn” :
Còn nhớ chuyện Công Cẩn với
Khổng Minh cùng mưu hạ Nam Quận chứ ?
(9).
Lạ gì ! Nam Quận do Tào Nhân
trấn thủ, tường đồng, vách sắt mà !
Cái việc trấn thủ mặc người
ta. Hẵng nói việc mình. Tôi Khổng Minh nhường cho cậu, Công Cẩn đem binh tấn
công trước, hạ được Nam Quận thì cậu giỏi và tôi mừng cho cậu. Nhưng nếu thất
bại thì đến lượt tôi đấy nhé ! Đừng có than trời !
Bính đồng ý ngay, coi bộ hùng
lắm. Và Hoàng lẳng lặng ra xe. Mặc cho Bính độc chiếm giang sơn. Yên trí rằng
tối nay Ngọc sẽ từ Hà Nội xuống, còn Hoàng ít nhất cũng phải hai ngày sau. Càng
nghĩ đến chuyện “nhường Nam Quận” càng thấy mình dại quá. Tuy nhiên, tính Hoàng
vốn dĩ “gặp đâu hay đó”, về đến Cảng là quên ngay.
Thế mà không hiểu sao, suốt
ngày thứ hai, Hoàng nóng ruột vô hạn. Dạy học chẳng ra đâu, tới hôm thứ ba thì
đành dạy nốt buổi sáng, rồi ký “bông” ra xe liền, mấy giờ buổi chiều đã nói khó
với một bạn đồng nghiệp nhờ thay tạm …
Lên đến Hải Dương mới 2 giờ
trưa, Hoài còn đang ngủ, mà … không có ai ngồi quạt bên cạnh mới lạ chứ ! Ô
hay, Bính đâu ? Ngọc đâu rồi ? Vắng tanh thế nầy nghĩa là gì ?
Nhưng, kìa … Hoài đã thức
giấc, ngồi dậy quấn lại tóc. Cái dáng vẻ của người ngọc lúc nầy sao gợi cảm thề
! Bắt gặp một mỹ nhân vừa ngủ dậy mà thấy đẹp được, xúc động được, mê được … mỹ
nhân ấy, mới đích thực là mỹ nhân …
Cho nên Hoàng quên phắt cả
hai ông bạn. Quên luôn cả chính mình đang ở đâu, Và … rồi cũng tiến đến ngồi
quạt hầu bên cạnh ….
Mãi đến chiều, Hoài mới đưa
cho một mảnh giấy nhầu nát, chẳng biết lôi từ đâu ra !
Cái ông tóc quăn quăn, ông ấy
bảo hễ anh xuống thì trao tận tay anh .
Thế còn ông kia ?
Thì anh cứ xem trong giấy nói
gì đã !
Hoàng tuân lệnh. Thư rằng :”
Tôi mắc công việc ở Hà Nội, mãi sáng thứ hai mới xuống Hải Dương. Lại bán được
một tập thơ hộ Nguyễn Bính. Nhà xuất bản Hương Sơn ấy mà ! Biết rằng ông còn ở
Cảng đến chiều tối mới lên đây, tôi và Bính đành về Hà Nội từ sáng sớm, để còn
lãnh tiền tập thơ ấy chứ ! Đợi ông thì mất đứt một ngày còn gì. Vậy ông tiếp
được thư, cũng liệu mà lên gặp chúng tôi ở Hà Nội ngay nhé ! Công việc đang
tiến hành. Ký tên : Chu Ngọc .
Lên ngay ? lên ngay !...
Nhưng lên thế nào được ? Giữa trưa xông vào nhà hát của người ta, lại tri kỹ
vụn cho đến bây giờ, sắp lên đèn cả xóm rồi. Nói mới nghe dễ thế nhỉ ?
Huống hồ lại đã mất công quạt
cho người đẹp mấy tiếng đồng hồ rồi. Ít nhất cũng phải “neo thuyền” ở đây một
đêm chứ !
Mặc dầu nghe hát … một
mình …
Có điều lạ là hôm nay Hoài
vui ghê lắm. Cứ nhẩy như sáo ất thôi. Điệu nầy thì Nguyễn Bính hạ Nam Quận chắc
không xong. Vả lại nếu thắng trận thì có thiên lôi cũng chẳng “kích” được Bính
ra khỏi tỉnh Đông, chứ đừng nói Chu Ngọc ! Bán được thơ lại càng có điều kiện
nằm lỳ ở đây chú . Ừ … ừ …. Nhất định không xong rồi .
`Thế là Hoàng cao hứng. Gọi
trống phách, đèn đóm cứ tưng bừng. Và bảo em Hoài rằng : Thôi ! Hát mãi những
bài cũ , chán chết ! Đem giấy bút ra đây, anh viết một bài mới, xem có hay hơn
bất cứ bài cũ nào không ?
Và sau đây là bài Mưỡu Nói do chính Hoài đã
hát đêm ấy, cho độc một người nghe
Bấy
lâu đáy bể mò kim.
Là nhiều vàng
đá, phải tìm trong hoa !
Sông Hoài
thuyền ghé lân la.
Giai nhân, danh
sĩ là ta với mình.
Nhu hoài
nhất phiến.
Gió say nầy quạt
đến … cháy vần Ô.
Ai thề hoa
ước quạt những ngày xưa ?
Hoa ngại nắng,
quạt sầu mưa, ngàn vạn kiếp !
Rao chén,
hoa cười, phấn điệp.
Duyên đề, xác
quạt nhớ tiền thân.
Mộng Trang
Sinh ngủ tại bến Sông Tần.
Muôn cánh quạt
xa gần chen cánh bướm …
Ta chẳng có hẹn núi,
thề sông, tình trao , duyên ướm.
Chỉ hoa
nồng, quạt đượm cứ hoài say.
Say Hoài,
quạt chẳng dời tay.
Cũng phải thêm
rằng bốn câu Mưỡu chỉ có một câu thật sự của Hoàng : câu thứ ba. Còn câu 1, câu
2 là tập Kiều và câu 4 mượn tạm của Nguyễn Bính (10).
Nguyên do đêm đầu
tiên gặp em Hoài, Bính đã cùng với Hoàng đặt liên tiếp hai bài “Hát Hãm”, mỗi
bài 4 câu. Như thường lệ, Bính nhập cuộc là ra quân ngay, mặc dầu chỉ là một
câu “tập cổ” :
Bán
sinh phong cốt tăng tằng.
Hoàng tiếp : Nhu hoài nhất phiến, sao bằng gởi đây.
Bính không ngần
ngại : Tỉnh Đông mà có mái Tây.
Hoàng phải
nghĩ một phút mới hoàn tất được :
Hồ
vơi cung Bắc, lại đầy gió Nam.
Đó là bài “Hãm “
thứ nhất, còn bài thứ hai thì chính là 4 câu Mưỡu như trên đã chép. Hoàng ra
quân trước :
Bấy lâu đáy bể mò kim.
Bính rất thuộc
truyện Kiều
Nên tiếp ngay
: Là
nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa.
Hoàng nối thành
câu thứ ba, mà điều kiện bắt buộc phải có chữ Hoài ;
Sông Hoải thuyền ghé lân la.
Bính được dịp
cười ha hả, vì Bính chỉ có việc lấy câu thơ vẫn ngâm hằng ngày ra, lựa vần nối
luôn, ý lại cũng hợp mới thú chứ . Câu thơ ấy gốc ở câu nói trong Tam Quốc Chí
: “Thiên hạ anh hùng. Sứ quân dữ Tháo “ và Bính vẫn tự khen là “tuyệt” phải
khuyên son đủ 8 chữ :
Giai nhân, Danh sĩ là mình với ta .
Nhưng nếu cứ
“khiêng” cả câu nầy vào bài “Hãm” thì lạc vần, nên Bính đảo lại :
Giai nhân, Danh sĩ là ta với mình.
Hoàng đề nghị đổi
quách ra thành :
Nào ai danh sĩ, ai là giai nhân ?
Bính không chịu,
bảo rằng tách rời giai nhân ra khỏi danh sĩ là “nhảm” là “vô tình” …
Bính ơi Bính !
Đêm nay chẳng biết “cậu” đang tự hủy diệt ở xóm nào ? Tôi ngồi nghe hát một
mình và em Hoài hát đấy nhé !- Không thể nào quên được cậu, nên trong bài hát,
tôi để nguyên vẹn 4 câu Hãm của tôi và cậu làm Mưỡu, không sửa một chữ nào !
Quý nhau đến thế Cậu ạ !
Ý nghĩ nầy cứ
chìm nổi mãi theo giọng ngọc của giai nhân, khiến cho Hoàng- chả biết có phải là
“danh sĩ” hay không ? chợt cảm thấy tất cả cái đẹp, cái say của tình bạn ‘ GIANG
HỒ VẶT “.
VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG
Sài Gòn 01/4/1971.
Trích
tập TA ĐÃ LÀM CHI ĐỜI TA
Trịnh Kim Thuấn sưu tầm .
(1)
Thơ
Khiển Sầu (tác giả khuyết danh) có 2 câu :
Nhi nữ đa tình nguyên thị Phật.
Anh hùng mạt lộ bán vi tăng.
Tạm dịch là : Lẳng tính, cô em nguyền kiếp Phật.
Cùng đường
cậu ấm nửa làm Sư.
(2)
Riêng
câu nầy đặt theo kiểu “Gối Hạc”, thật bất ngờ, Bính thích nhất và mỗi khi ngâm
đều cười lớn :”Dặt cái gì mà Thuyền, Cầu, Hang, vô nghĩa chi cực, thế mà cũng
thú vị chi cực !” Đúng ra Thuyền trỏ vào trận Xích Bích (đốt thuyền), Cầu trỏ
vào việc đốt Sạn đạo, Hang trỏ vào việc Khổng Minh đốt cha con Tư Mã Ý tại Bàn
Cốc và Cung điện trỏ vào việc Hạng Võ đốt A Phòng cung tại Hàm Dương, ba tháng
lửa mới tắt hết.
(3)
Trần
Tử Anh, tác giả vở kịch xuôi “Thế Chiến Quốc” là 1 sinh viên con nhà giàu, chớ
không phải trong nhóm “thơ văn lêu têu”. Chỉ có Chu Ngọc quen mà thôi. Mãi sau
Hoàng mới được gặp ở Hà Nội.
(4)
Vở
kịch thơ Nguyễn Bính lúc bấy giờ cho biết là đã hợp soạn với thi sĩ Yến Lan,
nhưng Yến Lan ở miền Trung, Hoàng chưa hề gặp.
(5)
Thơ
của Nguyễn Bính, đã đăng báo và đã in trong tập nào Hoàng không nhớ rõ.
(6)
Trần
Kim bút hiệu Trần Huyền Trân, bạn thơ rất thân của Nguyễn Bính.
(7)
Hai
câu hát nói của cụ Dương Khuê, các đào nương ai cũng thuộc và hay hát bài hát
nói nầy nhất.
(8)
Chỗ
nầy mượn tạm thơ Huy Cận trong bài Ngậm Ngùi :
….. Ngủ đi
! Hãy ngủ ! Anh hầu quạt đây.
Lòng em
mở với quạt nầy ….
(9)
Truyện
“Tam Quốc Chí” hồi thứ 51;
Tào Nhân đại phá Đông
Ngô binh.
Khổng Minh nhất khí
Chu Công Cẩn.
(10)
Hát
ả đào vốn là một lối “văn chơi”, không phải là văn “dạy đời” hay “cứu nước”, do
đó trong bài, tha hồ vay mượn cổ nhân. Thí dụ 4 câu Mưỡu có thể lấy nguyên văn
Truyện Kiều cũng cứ được. Hai câu thơ (thất ngôn hay ngũ ngôn) cũng tha hồ tập
cổ.
Tuy nhiên ở
bài nầy của Hoàng chỉ mượn hai câu trong truyện Kiều là nguyên vẹn thôi (Tập
Kiều).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét