|
Thế là người “Con của núi” đã
trở về với núi, trở về với đất mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng hồn thơ Lò Ngân Sủn
đi khắp các chân trời. Vậy là anh đã trở thành người thiên cổ, tôi cứ rưng rưng
nhớ lại những năm tháng cùng anh trong ngôi nhà Văn nghệ Hoàng Liên Sơn.
Tháng 12/1984 tôi được nhận về
Hội Văn nghệ Hoàng Liên Sơn, khi đó ở cơ quan thường trực Hội đã có những tên
tuổi lẫy lừng: Hoàng Hạc, Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, Lê Vân, Quách
Hùng...Nhớ lại những ngày ở Hội Văn Nghệ Hoàng Liên Sơn thật kinh khủng với
những cuộc đấu đá nội bộ tôi xin được kể vào một dịp khác.
Năm 1988, sau Đại hội Văn nghệ
Hoàng Liên Sơn, nhà thơ Ngọc Bái từ Quân khu II về nhậm chức Chủ tịch, Lò Ngân
Sủn trúng chức Phó chủ tịch Hội, tôi được phân công làm biên tập. Ngày ấy ba
tháng mới ra một số báo phải xin phép giấy xuất bản của Sở Văn Hoá-Thông tin,
nên chẳng có việc gì làm, chúng tôi dành phần lớn thời gian để sáng tác văn học
nghệ thuật.
Ngọc Bái và Lò Ngân Sủn thấy
rằng nhiều tác giả ở Hoàng Liên Sơn đủ số lượng tác phẩm để đứng tên riêng
trong một tập sách, còn cứ đứng chung trong các tập sách thì không thành tác
giả được. Đó là nhu cầu của các tác giả, nhưng kẹt nỗi ngân sách không thể cấp
tiền cho tác giả in sách được, nên tác giả phải tự bỏ tiền ra in sách. Tất
nhiên Hội Văn Nghệ có hỗ trợ trong việc xin giấy phép xuất bản, giới thiệu tác
phẩm...
Tập thơ đầu tiên của Lò Ngân
Sủn “Chiều biên giới” xuất bản năm 1989, tôi được phân công biên tập. Nói biên
tập cho vui, chứ tôi là lính mới tò te sao dám biên tập thơ của Lò Ngân Sủn?
Tuy nhiên, khi cầm tập bản thảo mà Lò Ngân Sủn đưa cho, tôi nhớ anh viết bằng
bút mực tím, chữ đều và đẹp, trên loại giấy xỉn màu. Anh bảo tôi: Thái Sinh xem
rồi trao đổi với mình nhé. Mới đầu anh chọn khoảng 35-40 bài, tôi trao đổi với
anh: “Chiều biên giới” là bài thơ nổi tiếng của anh, đã được phổ nhạc. Nếu anh
chỉ in một tập thì dồn những bài hay vào tất cả trong tập này, nếu anh định in
thêm vài tập nữa thì anh cần để dành cho những tập sau.
Sau nhiều ngày suy nghĩ Lò
Ngân Sủn quyết định chỉ in 30 bài, anh bảo: Tập đầu tiên mình muốn thăm dò dư
luận ra sao. Tập thơ này Ngọc Bái chịu trách nhiệm xuất bản, Thái Sinh biên
tập, hoạ sĩ Kim Tiến vẽ bìa, E Sun sửa bản in. E Sun chính là Lò Ngân Sủn, đây
là bút danh của Lò Ngân Sủn mà anh đã ký ở một số tác phẩm. In xong tác giả tự
phát hành, với số lượng in 720 cuốn chỉ vài tháng anh bán hết veo. Một hôm anh mời
tôi cùng Ngọc Bái, Kim Tiến và một số anh em văn nghệ ra quán thịt chó dựng
ngay cổng Hội Văn nghệ Hoàng Liên Sơn do ông Chi làm chủ quán. Lò Ngân Sủn cười
hè hè bảo chúng tôi: Bữa thịt chó này mừng cho tập “Chiều biên giới” của tôi...
Nói rồi anh dùng đũa đánh bát nước chấm mắm tôm sủi bọt rồi mút đầu đũa cười hè
hè khiến mái tóc quăn đen nhánh bung xuống trán. Chúng tôi cụng chén mừng cho
“Chiều biên giới” của anh.
Năm 1990 Lò Ngân Sủn in tiếp
tập thơ “Những người con của núi”, tôi lại được cử biên tập. Ban đầu anh lấy
tên tập sách Người con của núi, trong tập sách có bài thơ Những người con
của núi, tôi hỏi anh: Những người con của núi, tên hay như thế, sao anh không
lấy làm tên chung của tập thơ? Lò Ngân Sủn không nói gì, mấy ngày sau anh mới bảo
tôi: Mình đồng ý lấy tên Những người con của núi theo đề nghị của Thái Sinh.
Tập thơ được in ra, có một chi
tiết khiến tôi nhớ mãi. Lò Ngân Sủn là người xuề xoà, chẳng để ý hay chấp nhặt
ai. Khi tập thơ Những người con của núi in ra tôi được Hội Văn Nghệ cho một tập
theo “tiêu chuẩn” biên tập. Sau vài tháng Lò Ngân Sủn bảo tôi: Mình phát hành
hết tập Những người con của núi rồi, có một người bạn rất thân nhưng bây giờ
không còn tập nào để tặng người bạn đó nữa, Thái Sinh cho mình xin tập thơ do
Hội phát để mình tặng người đó...Khi tôi đưa tập thơ cho Lò Ngân Sủn anh cười
hè hè rồi cảm ơn tôi rối rít dắt chiếc xe đạp cà tàng phóng đi.
Lò Ngân Sủn sống giản dị không
cầu kỳ, ở Hội văn nghệ anh có một phòng riêng, nhưng do anh hút thuốc lào nên
có một cái điếu cày mọi người ai hút thuốc lào đều vào phòng của anh. Phòng phó
chủ tịch Hội trở thành “trung tâm” hút thuốc lào, mọi người trong cơ quan và
khách văn nghệ đều tới đó hút. Phòng anh có chiếc giường một, nhiều hôm uống
rượu thịt chó xong anh về phòng nằm trên chiếc giường đó đánh một giấc cho tới
chiều mới dậy. Khi anh chuyển lên Lào Cai tôi tiếp nhận phòng làm việc của anh,
khi lật chiếc chiếu lên mới giật mình, chiếc gối đầu của anh là mấy viên gạch.
Hoá ra suốt mấy năm trời ông Phó Chủ tịch Hội Văn Nghệ Hoàng Liên Sơn đều gối
đầu bằng những viên gạch xây đó.
Ngọc Bái kể rằng một lần Uỷ
ban bảo vệ chăm sóc trẻ em mời một số người chấm giải những tác phẩm văn học
nghệ thuật về đề tài vận động sinh đẻ có kế hoạch. Lò Ngân Sủn có bài thơ
“Những cô gái Lang Khay đi đặt vòng”, Ngọc Bái không chấm bài đó vì muốn giữ uy
tín cho nhà thơ Chiều biên giới. Lò Ngân Sủn trách: Ông chán bỏ mẹ, chấm cho
tôi cái giải khuyến khích cũng được để có tiền uống rượu thịt chó...
Thơ Lò Ngân Sủn đẫm chất dân
ca Giáy, tôi có cảm giác anh sinh ra từ vùng núi Bản Qua, đắm mình trong những
bài dân ca quê mình nên thơ anh giàu chất dân ca. Anh đã phát triển nhiều câu
dân ca, ngạn ngữ của dân tộc mình thành một bài thơ với cách suy nghĩ rất hiện
đại. “ Không sợ nhà chật/Chỉ sợ lòng người chật” để sáng tác bài thơ Lòng người
(Con của núi –NXBVH Dân tộc-2001)với những câu
“Lòng người như biển cả, trời
đất mênh mông
Lòng người như cái ống
bơ đong bữa ăn hàng ngày
Lòng người là dòng sông không
đáy
Lòng người là cái máy sinh
sự...”
Hoặc anh dẫn câu “ Rễ cây
ngắn/ Rễ người dài” trong bài Thương nhau:
Thương nhau
Núi cũng thấp xuống
Trời cũng gần lại
Để ta nhìn thấy nhau”
Hay như câu “ Ngồi thì co/
Đứng thì thẳng/Làm người thật khó” trong bài Làm người:
“Để trở thành một người biết
sinh con đẻ cái
Như thế chưa khó
Để trở thành một người biết ăn
ngon mặc đẹp
Như thế vẫn chưa khó
...
Làm người khó nhất là: Sống!”
Thơ Lò Ngân Sủn ít vần điệu
như cách nói dân dã của người miền núi, nhưng giàu hình ảnh và đầy triết lý.
Chính vì thế mà thơ Lò Ngân Sủn có gương mặt rất riêng không lẫn với ai được.
Tháng 10/1991 Khi Hoàng Liên
Sơn tách thành hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, Lò Ngân Sủn vận động tôi cùng anh
lên Lào Cai, nhưng tôi không đi được, vì đã xin vợ con về Yên Bái rồi. Như vậy
chỉ có một mình anh trong cơ quan thường trực Hội Văn Nghệ lên Lào Cai lập Hội.
Tôi được cử đưa tiễn anh lên tận Lào Cai, chiếc xe tải Zinkhơ thuê của Ban Định
canh định cư, đồ đạc là mấy cái bàn gãy chân, hai thứ đáng giá nhất là chiếc xe
máy “cánh cụp cánh xoè” và chiếc máy chữ. Hội Văn nghệ Yên Bái dành chiếc xe
Cub cho Hội Văn nghệ Lào Cai. Tất cả đều chất lên chiếc xe tải đó. Lò Ngân Sủn
không biết kiếm ở đâu được mấy cái chăn rách để chèn cho chiếc Cub không bị hỏng,
vì đó là phương tiện duy nhất để anh đi từ Tằng Loỏng -nơi tập kết -lên Lào
Cai. Khi chia tay anh ở Tằng Loỏng, anh hỏi tôi: Thái Sinh giới thiệu cho mình
một người biết sáng tác văn học nhưng làm được công tác Hội. Tôi không ngần
ngại giới thiệu Đoàn Hữu Nam, nguyên là công nhân cầu đường sau về Phòng Văn
hoá huyện Bắc Hà. Bởi khi làm biên tập tôi phát hiện thơ Đoàn Hữu Nam giàu chất
suy tưởng đã giới thiệu với Ngọc Bái và Lò Ngân Sủn. Nghe tôi nói vậy Lò Ngân
Sủn đồng ý ngay. Nay Đoàn Hữu Nam đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam,
hiện đang giữ chức Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lào Cai.
Sau Lò Ngân Sủn trúng Ban chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam, anh được điều về Hà Nội công tác, từ đó tôi thi
thoảng mới gặp được anh. Kể từ khi anh bạo bệnh thì chưa lần nào gặp anh cả,
mặc dù gặp bạn bè văn nghệ vẫn nhắc tới tên anh. Nay anh đã khuất núi, Người
“Con của núi” đã trở về với núi tôi viết những dòng này xin được thắp một nén
tâm nhang cho một người bạn văn một thuở.
Bài viết tác
giả gởi cho PHÓ NHÒM TÂY BẮC.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét