1. Điều tôi có thể khẳng định đầu tiên là đề xuất ấy
chỉ là ý kiến đột xuất của riêng Lê Hiếu Đằng khi anh đối mặt với căn bệnh ngặt
nghèo mà mình vướng phải, từ đó nẩy ra ý định nhìn lại cả một đời hoạt động đã
qua và đã bày tỏ những dằn vặt cá nhân của mình về những hoạt động đó trong bài
“ Suy nghĩ trong những ngày nằm
bịnh” . Khi bài này xuất hiện trên một trang mạng lập tức được anh Hồ
Ngọc Nhuận – một nhà báo cũng là một nhân sĩ ngoài Đảng, thuộc “lực lượng thứ
ba” đối lập với chính quyền Sài Gòn trước đây, sau 1975 đã cùng hoạt động với
anh Đằng trong ban lãnh đạo Mặt trận Thành phố Hồ Chí Minh – lên tiếng tán
thưởng bằng một bài viết hết sức nhiệt tình mang tên “Phá Xiềng”.
Sau bài viết đó của anh Nhuận, đây đó đã phát sinh dư
luận cho rằng việc thành lập một đảng mới đối lập, đương đầu với Đảng Cộng sản
đã là một thực tế đang được xúc tiến và xúc tiến bởi một nhóm người đang nuôi
tham vọng nào đó về chính trị. Nhưng theo chỗ tôi biết thì trên thực tế chưa hề
có một cá nhân nào hoặc một nhóm người nào đó thực sự có ý định kết tập nhau
lại để bắt tay vào việc hình thành ra cái đảng chính trị này cả. Tất cả chỉ mới
manh nha trong sự gợi ý từ bài viết của anh Đằng và riêng anh Đằng cũng cho
biết, ngay cả khi có điều kiện để hiện thực hoá ý tưởng ấy thì trong tình trạng
bệnh tật không biết đi đến đâu hiện nay, anh cũng không thể nào đứng ra đảm
đương được. Anh Đằng không ngây thơ đến nỗi không hiểu tính chất đầy khó khăn
và phức tạp của một dự án chính trị như vậy.
2. Qua việc tiếp xúc trực tiếp với anh và những văn
bản mà anh đã công bố, tôi có thể khẳng định thêm rằng khi gợi ra vấn đề “đa
đảng” nói trên, anh Đằng không hề đề ra mục tiêu lật đổ hay thay thế Đảng cộng
sản đang lãnh đạo nhà nước và xã hội Việt Nam. Động lực thực sự của anh là muốn
đưa ra một giải pháp thiết thực, góp phần dân chủ hoá đời sống chính trị của
đất nước, từ đó cùng góp sức với Đảng cộng sản, tìm kiếm những giải pháp phù
hợp thực tế để mau chóng đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay.
Suy nghĩ này của anh thật ra không có gì mới mẻ vì đã được nhiều nhân vật hoạt
động và một số nhà nghiên cứu (kể cả những người trong Đảng) nói tới từ lâu,
quan trọng nhất là chỉ ra được nguyên nhân mọi sai lầm lặp đi lặp lại của Đảng
cộng sản cầm quyền: đó là việc Đảng đã coi cái ý thức hệ Mác-Lênin của riêng
mình như chân lý duy nhất đúng, ép buộc toàn xã hội phải thừa nhận, căn cứ vào
đó thiết lập quyền độc tôn lãnh đạo, không màng đến phản ứng của cuộc sống thực
tiễn, nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
Tất cả mọi sự phản biện dai dẳng đưa đến những đề xuất
tìm kiếm một giải pháp điều chỉnh lại hướng đi cho đất nước cũng xuất phát từ
đó: trong thời kỳ mới này, Việt Nam cần phải chuyển mình sang thể chế dân chủ
để hình thành một tập hợp dân tộc đồng thuận, trong và ngoài nước, dựa trên đó
cùng nhau tìm ra những giải pháp thoát khỏi được sự bế tắc bấy lâu nay. Trong ý
hướng dân chủ hoá đời sống chính trị đó, vấn đề kiểm soát quyền lực – cụ thể là
không để nhà nước dùng sự độc tôn quyền lực triệt tiêu sự sống độc lập của xã
hội công dân, kết quả là biến sự độc tôn đó thành chỗ dựa cho các tập đoàn lợi
ích cấu kết với nhau để thao túng nhà nước – đã được đặt ra ngày càng gay gắt,
dưới nhiều hình thức, từ việc lên tiếng của những cá nhân đến những kiến nghị
tập thể mở rộng cho nhiều người tham gia.
3. Vấn đề “đa đảng” mà Lê Hiếu Đằng nêu ra chỉ nhắc
lại những suy nghĩ chung nẩy sinh từ quá trình thảo luận tìm kiếm con đường dân
chủ hoá cho Việt Nam, diễn ra cả hơn hai thập kỷ đã qua. Và không phải chỉ như
vậy vì có lúc các ý tưởng ấy đã thể hiện trong thực tế, cụ thể qua sự xuất hiện
công khai một số đảng chính trị mà thách thức rất đáng chú ý là việc ông Hoàng
Minh Chính một cựu đảng viên đứng ra “phục hồi” một đảng ra đời vào thời kỳ
cách mạng 1945 mệnh danh là Đảng Dân Chủ. Gọi là “phục hồi” một đảng cũ (thực
chất là do Đảng Cộng sản chủ động lập ra) nhưng trong khi đó ông Chính lại dời
vị trí nội địa của nó ra hải ngoại để một số nhân vật bên ngoài chi phối, vì
thế nỗ lực của ông đã không giữ được tính chính danh cần phải có để có thể hoạt
động, nhất là không đủ thực lực để vượt qua được sự trấn áp của Đảng cộng sản.
Đảng chính trị mang tên “Dân chủ Xã hội” do Lê Hiếu
Đằng đề xuất đã đi theo một hướng hoàn toàn khác: là kết quả của cuộc vận động
trong nước nhưng không ra đời một cách tự phát từ cuộc sống xã hội mà lại bắt
nguồn từ nội bộ Đảng cộng sản, cụ thể từ sáng kiến của những đảng viên bất
đồng, xin ra khỏi Đảng với một số lượng tương đối nào đó để có thể khởi xướng
và thành lập. Thực chất của cái thực thể chính trị được Lê Hiếu Đằng đề xuất đã
bộc lộ rõ trong điều kiện giả định đó: Đảng Dân chủ Xã hội sẽ không thể nào trở
thành hiện thực nếu chưa có đủ số đảng viên cộng sản ly khai cần thiết. Vì thế
sẽ là tất nhiên khi thấy anh Đằng chưa nói gì đến cương lĩnh, tổ chức, điều lệ
của đảng, và cũng là tất nhiên nữa khi chúng ta chưa thấy có dấu hiệu nào cho
biết đã có một sự chuẩn bị tối thiểu để làm việc đó. Câu hỏi về sự chín muồi
hay chưa của tình hình để sự đề xuất này có thể đi vào thực tế thiết tưởng cũng
không có ý nghĩa bao nhiêu.
Vì thế, muốn nhìn ra cho rõ hình hài của cái thực thể
chính trị mới này tôi thấy không dễ. Tuy vậy nếu cố gắng đi sâu vào những gì Lê
Hiếu Đằng gợi ra qua các bài viết của anh, chúng ta vẫn có thể hình dung ra
được đôi nét rất khái quát của nó. Khác hẳn về phương pháp hoạt động với Đảng
cộng sản, đó là điều rõ ràng nhất: nếu một bên là chuyên chính, dựa vào đường
lối từ bên trên để “cải tạo” bên dưới, buộc bên dưới phải vâng phục (cộng sản)
thì một bên sẽ là dựa vào bên dưới – Lê Hiếu Đằng nói đến nhiều lần cái “xã hội
dân sự” đang lớn mạnh – để hoạt động, lấy nguyện vọng của bên dưới hình thành
đường lối, căn cứ vào đó tạo ra áp lực tác động lên trên, buộc Đảng cộng sản
phải tiến hành những cải cách căn bản và thiết thực (dân chủ xã hội).
Khác nhau về phương pháp hoạt động nhưng xét về mặt
mục tiêu, hai thực thể chính trị ấy vẫn có thể gặp nhau trên những định hướng
lý thuyết khả dĩ về một mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống: hạn chế sự bóc
lột mù quáng và vô độ của chủ nghĩa tư bản, đề cao quyền sở hữu về sức lao động
của những người công nhân, bảo vệ môi trường tự nhiên, lành mạnh hoá môi trường
văn hoá xã hội …Với những tương đồng giả định đó, nếu ra đời được, Đảng Dân Chủ
Xã hội sẽ đảm nhận một chức năng đặc biệt trong mô hình “lưỡng đảng” kiểu Việt
Nam, ở đó Đảng cộng sản vẫn là chủ thể lãnh đạo còn Đảng Dân chủ Xã hội sẽ giữ
vai trò của một lực lượng “đối trọng hợp pháp”, không hoàn toàn là một thứ đảng
bù nhìn vuốt đuôi (như ở Trung quốc) nhưng cũng không phải là một đảng chống
đối nhằm “giải thể” Đảng cộng sản để thay thế như người ta có thể tưởng tượng ra.
4. Nhìn chung lại, tôi thấy đề xuất thành lập Đảng Dân
chủ Xã hội của Lê Hiếu Đằng đã đặt nền trên mấy nhận định sau đây:
·
Sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản hiện nay đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong công cuộc phát triển
lành mạnh của đất nước, vì vậy đang đưa dân tộc vào một cuộc khủng hoảng xã hội
trầm trọng, có nguy cơ để mất chủ quyền vào thế lực bành trướng phương Bắc.
·
Tình trạng đó
được quy về phương thức lãnh đạo chuyên chính của Đảng cộng sản với một đường
lối áp đặt, xa rời thực tế, mất lòng dân, cho nên biện pháp dân chủ hoá sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cấp bách để giải quyết cuộc khủng hoảng nói
trên.
·
Trong tình thế
cực đoan như hiện nay, sự ra đời của một đảng mới gần gũi với Đảng cộng sản về
mục tiêu nhưng khác về phương pháp là phương thức tốt nhất, để vừa dân chủ hoá
thể chế chính trị ở Việt Nam, vừa tạo ra một môi trường cạnh tranh thúc đẩy
Đảng cộng sản tự dân chủ hoá và canh tân.
Qua sự tìm hiểu như trên, giả sử như tiếp cận được gần
đúng suy nghĩ của Lê Hiếu Đằng, nếu bỏ qua một số biểu đạt có tính chất cảm
tính vì những bức xúc đặc biệt của anh, tôi cho rằng những suy nghĩ ấy cần được
đón nhận một cách thiện chí vì bản thân cái phần cốt lõi trong bài viết của anh
đã bắt nguồn từ một thiện chí không thể không ghi nhận.
Những anh em quen biết
anh Đằng lâu năm đều nhận thấy anh thuộc loại đảng viên ít chịu khoan nhượng
trước những sai trái, cho nên hoạt động trong một môi trường phải tận mắt chứng
kiến quá nhiều những điều đi ngược lại lý tưởng ban đầu của anh, nghiêm trọng,
dai dẳng đến phi lý, anh không thể không tiếp nối những người đi trước (như
tướng Trần Độ đã mất), lên tiếng phê phán những sai trái ấy với tinh thần trách
nhiệm cao nhất của một đảng viên mà cũng là của một công dân. Gọi anh là kẻ
“phản bội”, “chuyển hệ” hoặc theo đuôi các “thế lực thù địch”, xuyên tạc tư
tưởng để bôi nhọ nhân thân của anh v.v… là những quy kết đầy ác ý.
Còn về vấn đề “đa đảng” mà anh xởi lên, như đã nói ở
trên, thật sự đó vẫn chỉ là một đề xuất giả định, đúng hơn là một khuyến cáo có
tính chất định hướng cho Đảng cộng sản – chứ không phải cho những thực thể
chính trị khác – mà anh vẫn còn là một thành phần, mục đích không có gì khác
hơn là thúc đẩy sự canh tân thể chế, vì lợi ích của dân tộc mà cũng là vì Đảng
của anh. Vốn là một khuyến cáo công khai đề xuất trực tiếp, nếu không đồng ý
với anh thì điều quan trọng nhất để những nhà lãnh đạo Đảng ứng phó là chỉ đạo
những nhà lý luận của mình, dưới hình thức một cuộc đối thoại cũng công khai,
minh bạch trả lời từng điểm một các vấn đề đã được nêu ra, nhân dịp này thành
thật công bố đường lối giải quyết những khó khăn hiện nay của Đảng (nhất là với
chủ nghĩa bành trướng phương Bắc), không phải chỉ với riêng anh mà với cả đông
đảo những người thuộc nhiều thế hệ khác nhau, đã nghĩ như anh và tạo ra động
lực để anh bộc lộ. Không làm như vậy mà lại né tránh các vấn đề đó, trong khi
đó lại cho mở ra chiến dịch công kích anh hết sức thô bạo – cơ sở lập luận
không dựa vào đâu ngoài những công thức tuyên truyền xa rời thực tế (như tính
chất “khoa học” của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự chọn lựa của Đảng và của nhân dân
là một, cổ vũ đa đảng là làm rối loạn xã hội v.v…), đương nhiên coi đó như
những chân lý quyền uy, không cần thuyết phục – những nhà lý luận của Đảng đã
không gặt hái được gì ngoài những chống trả quyết liệt của nhiều xu hướng phản
biện khác nhau.
5. Để giữ tính chất nghiêm túc cho đề xuất của Lê Hiếu
Đằng, thiết nghĩ chúng ta cần vượt lên cuộc tranh cãi ồn ào đang diễn ra để tìm
hiểu thêm vấn đề này theo một viễn cảnh chuyển đổi xã hội rộng lớn hơn mà ở
Việt Nam hiện nay đang đặt ra ngày càng rõ ràng, đặc biệt là những ý hướng canh
tân mạnh mẽ xuất phát từ trong nội bộ Đảng cộng sản. Trong xu thế ấy, việc đề
xuất công khai và trực tiếp của Lê Hiếu Đằng về vấn đề “đa đảng” là một đột
biến quan trọng, có khả năng mở ra một hướng mới cho quá trình đấu tranh trong
nội bộ Đảng về sự cần thiết phải có những chuyển hoá triệt để về lãnh đạo: cuộc
đấu tranh dân chủ hoá đời sống chính trị của đất nước từ nay trở đi sẽ không
chỉ giới hạn trong việc “phản biện” trên lời nói về những chính sách sai lầm
của Đảng mà cần tranh đấu tạo ra một định chế phân tán quyền lực để ngăn chặn
những sai lầm ấy một cách có hiệu lực. Việc kiểm soát quyền lực này không đụng
chạm tới cương lĩnh của Đảng cộng sản (đó là chuyện nội bộ của những người cộng
sản) mà chỉ đặt vấn đề thiết lập một định chế mới để buộc Đảng cộng sản phải
tuân thủ những quy định dân chủ về “kiểm soát và cân bằng quyền lực” khi đem
cương lĩnh của mình ra thực hiện.
Trước một xu thế như vậy, sự phản ứng ứng quyết liệt
của một số cán bộ Đảng, quen bám víu (một cách lén lút) vào thứ lý luận giáo
điều về “chuyên chính vô sản”, dứt khoát không chia quyền với bất cứ ai, là
hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng nhìn vào lịch sử của phong trào cộng sản thế giới,
người ta nhận thấy quan niệm ấy không phải lúc nào cũng được áp dụng một cách
tuyệt đối, máy móc, nhất là trong những tình thế khó khăn cần linh động nhân
nhượng để đừng mất tất cả (“dĩ bất biến ứng vạn biến” như Hồ Chí Minh hay nói):
việc Đảng cộng sản Đông Dương, cuối năm 1945 ra thông báo căn cứ vào “tình hình
thế giới và hoàn cảnh trong nước” bấy giờ để tự giải tán là một thí dụ . Trong
những tình hình như vậy, vấn đề “đa đảng” không còn là một khái niệm phải lẩn
tránh mà là một công cụ trong đấu tranh, cần phải được sử dụng để bảo vệ mục
đích theo đuổi của mình. Vấn đề thành công hay thất bại trong trong việc quyết
định này hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản lĩnh của những người có đảm lược sử dụng
công cụ đó.
Ngay trong điều kiện đã giành thắng lợi rồi mà muốn
bảo vệ quyền lực một cách lâu bền, công cụ đó vẫn không thể tiên quyết coi như
một cấm kị. Thực tế cho chúng ta biết có khá nhiều hình thức “đa đảng” đã được
những đảng cầm quyền sử dụng có lợi cho mình.
Có thể cho phép một loạt đảng
“hiệp thương” tồn tại để làm “kiểng” cho chế độ một đảng độc tài. Cũng có
trường hợp các đảng gọi là “đối lập trung thành” được luật pháp cho hoạt động
công khai nhưng trên thực tế đã bị đảng cầm quyền khống chế (một cách hợp pháp
và cả bất hợp pháp) để duy trì quyền lãnh đạo thống trị của mình. Cũng có
trường hợp công cụ đa đảng được dùng trong thể chế “đa nguyên đa đảng” ở đó các
đảng đối lập, vì một lý do văn hoá, lịch sử nào đó, luôn chiếm vị trí thiểu số,
nhưng cũng có những trường hợp được sử dụng trong thể chế “nhất nguyên đa
đảng”, ở đó chỉ có hai đảng thay nhau cầm quyền bằng những phương pháp khác
nhau nhưng có cùng mục đích bảo vệ những giá trị chung của một chế độ cả hai
đều chia sẻ. Trước thực tế phức tạp của cuộc đấu tranh quyền lực, việc tuyệt
đối hoá một quan niệm “độc đảng” có nội dung nào đó để duy trì sự độc tôn quyền
lực cho Đảng của mình trong mọi trường hợp là một thái độ không thực tế. Nhất
là lại thuần tuý bằng trấn áp và bạo lực thì không những không thực tế mà còn
nguy hiểm: đảng chính trị đó chỉ tích tụ những toan tính bạo lực ngược chiều,
trước sau gì cũng “quỵ sụm” hoặc bị đánh đổ bằng con đường bạo lực do mình tạo
ra.
Công việc cực kỳ khó khăn, xin đừng quá bồng bột coi đề xuất này như một thứ phép màu mang đến khả năng chấm dứt ngay được di sản nặng nề của độc tài, chia rẽ, hận thù do quá khứ để lại. Cũng đừng quên trong chính trị, vấn đề “đa đảng” chỉ là một công cụ đấu tranh: viễn cảnh về một xã hội mà công cụ đó cần vượt qua và nhắm tới mới là mục tiêu quan trọng hơn.
2-9-2013 LỮ PHƯƠNG (theo VietStudies)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét