RIÊNG TẶNG nhà văn THÁI DOÃN HIỂU .
Ông Tân Khí Tật viết : “Vạn
sự vân yên hốt quá”, muôn sự trên đời nầy như mây, như khói rồi trôi đi, bay
qua …….
Vẫn biết là thế , cố gắng
sống cho nhàn, cho hết phần đời còn lại (cũng gần hết rồi), nhưng khi đọc loạt
bài :”Những cái chết tức tưởi của các nhà văn – chuyện bây giờ mới kể” của Thái
Doãn Hiểu, đem đến cho tôi nhiều bất ngờ và tức tưởi ……..
Những gì viết về lúc sinh
thời của Dương Quảng Hàm thì Thái Doãn Hiểu đã viết tương đối đầy đủ lắm rồi,
cái bất ngờ và tức tưởi của tôi là cái chết của ông, vào đêm 19/12/1946 tại Hà nội
trong những ngày đầu kháng chiến, hưởng dương 48 tuổi. Dương
Quảng Hàm mất tích bởi ông là đảng viên Quốc Dân Đảng. Đây là lần đầu tiên tôi biết về cái chết của thầy giáo Dương Quảng Hàm.
Trước mặt tôi là
quyển “Văn học Việt Nam”,
tác giả Dương Quảng Hàm (không có học vị, học hàm cả 2 chữ nhà giáo đứng phía
trước cũng không có) do Trung tâm Học liệu – Bộ Giáo dục xuất bản. Tôi mua
quyển sách nầy vào năm tôi học lớp Đệ Tam C, trường trung học Thoại-Ngọc-Hầu –
Long xuyên , năm 1969.
Nguyên văn : BIÊN
TẬP ĐẠI Ý (trang 1) :Cuốn sách nầy soạn theo chương
trình khoa giảng Việt văn ở năm thứ ba và thứ tư ban Cao đẳng tiểu học do Nghị
định ngày 03 Février đã qui định ..…………
……………………………………………………………………………….
Văn nôm cũ của
ta, thứ nhất là văn vần, có nhiều hàm súc, ít lời mà nhiều ý, lại có nhiều chỗ
đặt cầu kỳ, đảo điên, nên ông thầy cần phải xem xét học trò có hiểu rõ đại ý cả
câu. Cả đoạn sau khi chúng ta hiểu rõ nghĩa, những chữ khó trong câu. Có nhiều
câu hoặc nhiều bài ngụ một ẩn nghĩa ở trong, ta cũng cần giảng cho học trò hiểu
cái nghĩa ấy, nhưng chớ nên biện nạn, đến nỗi nói sai hoặc nói quá nguyên ý của
tác giả.
Hà nội tháng sáu tây năm 1939.
Dương Quảng Hàm.
Soạn 1 bộ sách
giáo khoa từ năm 1939, được xem là cuốn Văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ
( thời Pháp thuộc) đầu tiên của Việt Nam. Riêng tác phẩm “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” được Bộ Quốc gia
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, chính thức dùng làm sách giáo khoa, chương trình
lớp Đệ Tam (lớp 10) trong nhiều năm liền ….. trong số học sinh đó có tôi.
Trong sách, ở
phần : Phép tắc các thể văn như : vè, truyện, thơ đường luật, thơ mới , văn
sách. kinh nghĩa …. Ta gặp lại ông Lê Quí Đôn, nhà bác học Việt Nam
khi xưa, nhưng không phải bài thơ “Rắn đầu biếng học”, mà là 2 bài văn cổ .
Một bài VĂN SÁCH làm mẫu .
Đầu bài : Lấy chồng cho đáng tấm chồng , bỏ công tô điểm má hồng,
răng đen. Tục ngử có câu rằng : “Chẳng tham ruộng cả, ao liền. Tham về cái bút,
cái nghiên anh đồ”. Phù anh đồ “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” Tằng kiến ư
thòi nhân chi sở tiếu, bất tri hà sở thủ nhi quyến luyến ư anh đồ ru ?
Một bài KINH NGHĨA làm mẫu .
Đầu bài : Mày về nhà chồng, phải kính, phải răn, chớ trái lời
chồng (chữ kinh lễ : vãng chi nhữ gia, tất kính, tất giới, vô vi phu tữ).
Tiếng là văn cổ,
khi xem xong thật dễ hiểu, đã hay lại vui. vui … (có dịp tôi sẽ gởi đến quí vị
trọn 2 bài văn nầy ).
Có giai thoại,
năm 1969, Thầy dạy văn Lê Văn Trung, khi
giảng đến : Thơ Cổ phong và các lối thơ khác, có lối thơ YẾT HẬU (yết : nghỉ ;
hậu : sau) là lối thơ có 4 câu thì 3 câu trên đủ chữ, còn câu dưới chỉ có 1 chữ
. Thí dụ :
ANH NHÈ
Sống ở nhân
gian đánh chén nhè.
Thác về âm
phủ cắp kè kè.
Diêm vương
mới hỏi : Mang gì đấy ?
BE
Thầy Trung mới kể
lại : Nơi tác giả Văn học Việt Nam mà các em đang học đây, thầy Dương Quảng Hàm
vừa là thầy dạy , vừa là Hiệu trưởng trường Bưởi. Các học sinh truyền khẩu với
nhau bài thơ nầy :
Sống ở dương gian có cục đàm.
Thác về âm phủ
nói làm nhàm
Diêm
vương liền hỏi : Rằng ai đấy ?
HÀM.
Thầy Hàm biết
chuyện chỉ lắc đầu cười trừ . Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò mà !
Ôi Thầy mất sớm
quá, mất trong tức tưởi, lúc ấy tôi chưa ra đời, không biết trong chương trình
giảng dạy ở miền Bắc từ 1954 – 1975 có giảng dạy quyển sách nầy hay không ? Chứ
bọn học trò chúng tôi thì biết cả, mà các thầy cô dạy môn Việt Văn thì đây là
sách gối đầu giường, là Kim chỉ Nam
nữa kìa
…………………………………………………………………….
“ Ngày nay, nếu
đọc lại những bài viết của nhóm Nhân văn – Giai phẩm, phải công nhận là nước ta
đã từng có những nhà trí thức khả kính. Đất nước ta ra nông nỗi hiện nay bởi
lịch sử không chọn họ ……………….. (HUY ĐỨC)
Thủ lĩnh nhóm Tự
Lực Văn Đoàn nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, ngày 8/7/1963 Tòa án Quân sự
của chánh quyền Ngô Đình Diệm xử ông. Ông nhận được trát hầu Tòa và Nguyễn
Tường Tam không chịu đứng trước vành móng ngựa, vì “Đời tôi để lịch sử xử, tôi
không chịu để ai xử cả”. Đây là cách chọn lựa hay nhất, khôn ngoan nhất đối với
Nhất Linh (theo Thế Uyên), chiều ngày
7/7/1963 ông uống thuốc ngủ quyên sinh.
Nghiệp văn chương,
không chừa riêng một ai : Nhà thơ Thu Hồng, Ngô Tất Tố, Nhượng Tống, (kỳ 1)
Thiệu Chửu, Lan Khai (kỳ 2) Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu (kỳ 3)… lại đi
trước các vị trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm. Lịch sử không chọn các vị, mà
đã loại các vị ngay những phút đầu tiên.
Không biết có
phải là số phận hay thân phận của con người, trong quyển Văn Học Việt Nam lại
có một bài thơ độc đáo, theo thể thơ : SONG ĐIỆP (song : đôi ; điệp : trùng
nhau) là lối thơ mỗi câu hoặc ở đầu hay ở cuối có đặt hai cặp điệp tự (chữ lặp
lại) thí dụ :
Vất vất, vơ vơ
cũng nực cười.
Căm căm, cúi cúi
có hơn ai .
Nay còn chị chị,
anh anh đó.
Mai đã ông ông, mụ mụ
rồi.
Có có, không
không lo hết kiếp.
Khôn khôn, dại
dại chết xong đời.
Chi bằng láo
láo, lơ lơ vậy.
Ngủ ngủ, ăn ăn nói chuyện chơi
Tác giả VÔ DANH
Không hiểu có
phải cuộc sống vừa qua của chúng ta, như thế không nhỉ ?
Thôi thì : Đã mang lấy nghiệp vào thân.
Cũng đừng trách lão trời
gần, trời xa ! (Nguyễn Du)
Đôi dòng tâm tư
của kẽ hậu bối, thành kinh gởi đến thầy Dương Quảng Hàm, bậc tiền bối cũng là
người thầy đáng kính của chúng con.
21/9/2013 Trịnh-Kim-Thuấn (theo Trannhuong.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét