Chuyện bây
giờ mới kể
Thiều Chửu (1902–1954) là nhà văn
hóa, dịch giả và cư sĩ. học giả Việt Nam,
tác giả Hán Việt tự điển và
nhiều bộ sách về Phật Giáo nổi tiếng khác. Ông từng được mời tham gia Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945 với tư cách là Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã
hội.
Ông tên thật là Nguyễn Hữu Kha, xuất thân
trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Trung Tự, phường Đông Tác cũ, nay thuộc quận Đống
Đa, Hà Nội. Thân phụ của ông là Nguyễn Hữu Cầu, quen gọi là cụ cử Đông
Tác, từng tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục nên bị thực
dân Pháp
đày đi Côn Đảo. Cụ nội của ông là ông nghè Đông Tác Nguyễn Văn Lý.
Ông kể về tuổi thơ của mình: “Nhà nghèo quá, chị
em tôi 7-8 tuổi đã phải chăn bò cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi
tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng
thì mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được ba ngày mẹ đã phải đi làm đồng”. 16 tuổi, Hữu
Kha một mình xuống Đồ
Sơn bán thuốc Nam
và bánh kẹo kiếm sống. Vì tin người nên mất hết vốn, ông phải làm phu kéo
thuyền, đẩy xe, thậm chí đi ăn xin. Hai năm trời cực nhục ấy khiến ông ngày
càng tin yêu triết lý cứu khổ cứu người của đạo Phật.
Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu ra tù, ông về giúp cha mở hiệu
thuốc Lợi Nhân Đường ở Ngã Tư Sở. Ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị
lương y suốt đời chữa bệnh cứu người không lấy tiền. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu
(Tịnh: trong sạch, Liễu: hiểu biết), bắt đầu tự học đạo Phật và ngoại ngữ. Được
bà nội và bác ruột dạy chữ Hán, cùng đức tính kiên trì tự học, dần dà ông đã am
hiểu chữ Hán, Nho giáo và Phật
giáo, lại thông thạo các tiếng
Anh, Pháp, Nhật. Bén duyên với Phật giáo, ông lấy hiệu là Thiều
Chửu, có nghĩa là cái chổi quét bụi, thể hiện rõ tâm nguyện của mình là “cây
chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua ngòi bút cải cách của mình”.
Ngoài ra, “hàng ngày phải lau quét bụi trần tham nhiễm, đừng để gương lòng vẩn
đục bởi phiền não vô minh che lấp”. Ông không trở thành tu sĩ mà chỉ là một cư
sĩ, tu tại gia.
Khi bà chị ruột túng bấn, ông thôi việc hiệu
thuốc để giúp chị mưu sinh bằng nghề cho thuê đòn tang. 28 tuổi, ông giúp cậu
em họ kiếm sống bằng cách cùng mua một máy in dập chân, thuê nhà số 36 phố Sinh Từ mở hiệu sách Hoà Ký
(lấy tên từ phương châm Lục Hoà của Phật).
Đi sâu nghiên cứu Phật giáo, năm 1932-1933 ông
cho ra đời bản dịch Khóa hư lục, “bộ kinh cứu khổ cho đời” mà theo
ông tác giả là vua Trần Nhân Tông, vị tổ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam (theo Đào
Duy Anh thì tác giả là vua Trần Thái Tông).
Thiều Chửu góp công lớn trong sáng lập Hội Phật
giáo Bắc Kỳ (1934), nhưng khi Hội mời vào Ban Trị sự thì ông lại do dự vì thấy
Ban này có mấy vị quan cai trị. Sau cùng ông nhận lời với ý nghĩ có thể lợi
dụng Hội này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa thời đó.
Sau khi Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập năm 1934
và ra báo Đuốc tuệ, Thiều Chửu nhận lời làm quản lý và biên tập cho
tờ báo. Ông cũng tham gia thành lập Hội truyền bá quốc ngữ vào
năm 1938 để nâng cao dân trí. Năm 1936, ông cùng bà Cả
Mọc (Hoàng Thị Uyển) đồng sáng lập Hội Tế Sinh và làm Tổng Thư ký Hội.
Ngay năm sau Hội lao vào cứu giúp nạn nhân trận lụt Đinh Sửu. Ông kể: “Chính vì
chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn
ngon mặc đẹp, không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin
lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có”. Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc
Giang. Ngoài việc góp sức cho cơ quan cứu tế, ông cùng bà Cả Mọc còn vận
động đi lấy tiền lấy áo; rồi cùng ông Hoàng Đạo Thúy, Trần Duy Hưng hàng ngày đem thuốc, tiền, quần áo
đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Những yếu nhân của Hội
đã đi cứu tế ba tháng liên tục cho đến lúc lúa chín.
Năm 1941, khi trường Phật học Phổ Quang được mở,
ông đảm nhận việc dạy chữ Hán, giảng kinh và chủ trì các khóa lễ mà nhiều học
viên sau này trở thành các bậc tu hành có uy tín như Hòa thượng Thích Tâm Tịch,
đệ nhịPháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1945, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã mời ông ra làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội trong chính
phủ Lâm thời, nhưng ông từ chối để tiếp tục việc giảng dạy cho các lớp Phật
giáo, cùng Cô nhi, để theo con đường tu trì lợi tha mà mình đã chọn.
Năm 1946 ông cùng một
lớp học tăng ni và một số trẻ mồ côi hội Tế Sinh đi theo kháng chiến chống Pháp,
tham gia lao động sản xuất, giáo dục, viết và dịch sách. Ông ba cùng với học
sinh vượt qua vô vàn gian khổ duy trì đến cùng trường vừa học vừa làm.
Khi đội Cải cách ruộng đất về địa phương, thấy
trường làm ăn nên nổi, quy ông là địa chủ, vu cáo ông dùng Phật giáo để mê hoặc
quần chúng, cộng với sự thương cảm cho nhiều nông dân bị hàm oan trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam mà
cảm thấy mình bất lực, đêm 15 rạng ngày 16
tháng 6 năm Giáp Ngọ 1954, tức cuối ngày giỗ cha, ông ra thác Huống trên sông
Cầu tại xóm Đồng Tâm, xã Vạn Thắng, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên làm lễ Tam Bảo và Thiên địa rồi gieo
mình xuống sông. Trước khi mất, Thiều Chửu thức trắng đêm viết
thư tuyệt mệnh gửi Hồ Chủ Tịch, thư dặn dò các học trò mình phấn đấu theo Kháng
chiến chống Pháp đến cùng, và viết lời kết bản Tự Bạch (cũng gửi Hồ Chủ Tịch)
như sau: “Cái án “mạc tu hữu” (tức vu cáo, ông viết chữ Nho) mà ông Nhạc Phi
phải chịu đời phong kiến còn có lẽ; ai ngờ đời nay chính bản thân tôi lại bị,
thì tôi còn biết van vỉ làm sao được nữa”. Cái chết “Thiên cổ kỳ oan” của ông
đã gây ra nỗi chấn động và tiếc thương vô hạn trong dân chúng địa phương và
giới Phật Tử cả nước. Ni sư Thích Đàm Ánh, một học trò của Thiều Chửu kể Thiều
Chửu có dặn đừng vớt xác ông, nhưng các hậu duệ và học trò không ai nỡ làm thế.
Sau hòa bình lập lại, họ trân trọng rước hài cốt ông về Hà Nội mai táng. Hiện
nay mộ ông đặt tại nghĩa trang Thanh Tước, số mộ 170-C3.
Trước tác:
Thiều Chửu để lại 93 tác phẩm viết và dịch. Ngoài
bộ Hán Việt tự điển có giá trị vượt thời gian, ông còn dịch 14
bộ kinh căn bản của đạo Phật như Kinh Di Đà, Thủy Sám, Địa Tạng, Kim Cương
Bát Nhã, Viên Giác, Pháp Hoa, Dược Sư, Phả Môn, Di Giáo, Tứ Thập Nhị Chương,
Kinh Lễ Sáu Phương, Lục Tổ Đàn Kinh, Khóa Hư. Các sách dịch khác của ông có
thể kể:Vì sao tôi tin Phật giáo, Phật học cương yếu, Tây du ký…
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử
luận (NXB Lá Bối, 1985) đã đánh giá “các bản dịch của ông rất đặc sắc,
đọc rất êm tai, nghĩa lý khá rõ ràng”, nhất là văn trong Khóa Hư ”là
văn biền ngẫu rất khó dịch”.
Ông cũng viết các sách về Phật học như Sự
tích Phật tổ diễn ca, Nhòm qua cửa Phật, Cải tà quy chính, Khóa tụng
hàng ngày, Con đường Phật học thế kỷ 20.
Năm 1943, ông soạn cuốn “Giải thích truyện
Quan Âm Thị Kính”, chủ yếu dùng triết lý Phật học để giải thích. Ông coi
tập thơ Nôm khuyết danh đó là kinh Phật chứ không chỉ là một tác phẩm văn
chương.
Tác phẩm cuối cùng của ông là “Con đường học
Phật ở thế kỷ thứ XX” xuất bản năm 1952 thể hiện quan điểm của một Phật Tử
chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số tăng sĩ vùng địch
chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của
dân tộc.
Nhà văn Nguyên
Ngọc viết về Thiều Chửu: “Ngày nay nhìn lại, thật đáng kinh ngạc về tư
tưởng sâu sắc và mạnh mẽ của ông về nhân dân. Đó là một tư tưởng xã hội có tầm
cao rất đáng để chúng ta chiêm nghiệm… Tính thời sự vẫn còn nguyên”.
Học giả Vũ Khiêu đánh
giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức lớn của dân tộc,
và kính tặng đôi câu đối “Nửa kiếp trầm luân, bác cổ thông kim, lòng bốn bể;
Trăm năm phù thế, cứu dân báo quốc, phép muôn đời”.
Học giả Vũ Tuấn Sán nhìn nhận Thiều
Chửu “là một hiện tượng khá đặc biệt trong giới trí thức ở thế kỷ XX, một người
sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn vì lý tưởng”.
Dương Quảng Hàm
Dương Quảng Hàm (1898-1946), hiệu là Hải
Lượng là nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục Việt Nam.Tác
phẩm Việt Nam văn học sử yếu, do ông dày công biên soạn, được xem
là cuốn văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam
Dương Quảng Hàm sinh trong một gia đình có
truyền thống nho học tại làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang,
tỉnhHưng
Yên. Cụ nội là Dương Duy Thanh (1804-1861),
từng làm Đốc học Hà Nội. Thân phụ là Dương Trọng Phổ, anh cả
là Dương Bá Trạc, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, trường học cách mạng đầu
tiên của thành phố Hà Nội,
em là Dương Tụ Quán, đều là những
danh sĩ có tiếng đương thời.
Thuở nhỏ ông học chữ
Nho, sau ra Hà Nội học chữ quốc ngữ. Năm 1920, tốt nghiệp thủ khoa trường
cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Từ năm 1920 đến 1946, ông làm giáo viên trường Bưởi (tức
trường trung học bảo hộ, tiền thân của trường Chu Văn
An ngày nay). Sau thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được bổ
nhiệm làm thanh tra Trung học vụ, rồi làm Hiệu trưởng của trường
Bưởi.
Trong hơn 20 năm (1920-1945), Dương Quảng Hàm
đã làm việc không mệt mỏi, vừa giảng dạy, vừa viết sách giáo khoa văn học và sử
học cho nhà trường từ bậc tiểu học đến bậc trung học, vừa bằng tiếng
Pháp vừa bằng tiếng Việt. Hai cuốn sách có giá trị nghiên cứu nhất của
ông là Việt Nam văn
học sử yếu (1941),Việt Nam thi văn hợp tuyển (1942).
Riêng tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu được Bộ Quốc
gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa chính thức dùng làm sách giáo khoa
chương trình lớp Đệ Tam (tức là lớp 10) trong nhiều năm liền.
Ngoài ra, ông còn biên soạn nhiều sách khác nữa.
Dương Quảng Hàm
chết khi còn đang tại chức vào đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946, tại Hà Nội trong
những ngày đầu tiên toàn quốc kháng chiến, hưởng dương 48 tuổi. Dương Quảng Hàm
mất tích bởi ông là đảng viên Quốc dân đảng.
Hậu thế đã đánh giá về sự nghiệp trước tác của
Dương Quảng Hàm là:
Người thầy xuất sắc đã đào tạo hàng nghìn học trò
trong một phần tư thế kỷ.(có những học trò mến phục tài đức của ông mà chọn
nghề sư phạm).
Nhà nghiên cứu văn học đã đặt nền móng cho môn
lịch sử văn học, văn học so sánh ở Việt Nam, người khởi xướng chương trình
quốc học cho nền giáo dục hiện đại.”
Về nhân cách, ông là “một nho sĩ yêu nước, một
nhà mô phạm từ cách ăn mặc, nói năng đến mối quan hệ thầy trò, nhất nhất đều
theo quan niệm chữ Lễ của Khổng học” …
Hiện nay tại thị xã Hưng
Yên, TP Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội đều
có đường phố mang tên Dương Quảng Hàm.
Lan Khai (1906 – 1945), tên
thật: Nguyễn Đình Khải, là nhà văn Việt Nam thời
tiền chiến. Trong lịch sử văn họchiện
đại Việt Nam trước năm 1945, ông được xem là
một cây bút sung mãn, một nhà văn “đường rừng” sáng giá. Dù ở thể loại nào ngòi
bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lí tính của độc giả. Đặc sắc nhất
vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền núi.
Lan Khai sinh tại xã Vĩnh Lộc, châu Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Cha ông là Nguyễn Đình Chức, nguyên quán ở
tỉnh Thừa Thiên-Huế. Khoảng năm 1885, ông Chức cùng hai
anh hưởng ứng dụ Cần Vương, tham gia khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo ở Hương Khê (Hà Tĩnh).
Năm 1895, cuộc
khởi nghĩa bị dẹp tan, ba anh em ông Chức phải rời bỏ quê hương, lên thượng
nguồn Việt Bắc lập nghiệp. Và ông Chức đã dừng lại ở châu
Chiêm Hóa hành nghề dạy học, chữa bệnh. Mẹ Lan Khai là Lê Thị Thục, xuất thân
trong một gia tộc lâu đời ở địa phương.
Năm 8 tuổi (1914), ông theo cha mẹ
chuyển về sống ở làng Xuân Hòa (nay thuộc phố Xuân Hòa, tỉnh lỵ Tuyên Quang),
nơi cư trú của nhiều gia đình thợ thuyền và phu mỏ (vì
làng Xuân Hòa tiếp giáp với mỏ than Tuyên Quang và mỏ kẽm Tràng
Đà).
Năm 18 tuổi (1924), ông về Hà Nội theo
học trường Bưởi. Sau khi
học xong bậc Thành chung, ông thi vào
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Năm 21 tuổi (1927), ông trở về quê lập gia đình
với Hà Thị Minh Kim (1909 -1999), con một gia đình
khá giả ở tỉnh Tuyên Quang, có nhan sắc, học thức và tâm tính nhân
hậu…
Lấy vợ xong, cuối năm đó, Lan Khai trở lại trường
tiếp tục học tập, nhưng học chưa hết hai năm, ông trở lại Tuyên Quang, dạy học,
dịch sách và viết văn. Ông cũng đã dành nhiều thì giờ đi du ngoạn đó đây, để vẽ
tranh phong cảnh, sưu tầm những sáng tác dân gian của đồng bào các dân tộc
thiểu số và tìm hiểu cuộc sống của những người phu mỏ.
Sau, vì tham gia vào tổ chức bí mật kháng Pháp
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù
Hỏa Lò (Hà Nội). Cha mẹ ông đã phải bán hết gia sản mới cứu ông thoát
chết.
Năm 1934, khi Lan Khai đã
thành danh trên văn đàn, ông quyết định đưa cả gia đình về sống ở Hà Nội (ở nhà
thuê, thường đổi chỗ). Để nuôi được 8 người, ông phải viết cật lực
Năm 1938, ông bắt đầu viết
cho Tiểu thuyết thứ Bảy và
sau đó ông cùng với Lê Văn Trương, trở thành hai cây bút cột trụ của nhà
xuất bản Tân Dân.
Năm 1939, ông làm Tổng thư
ký tạp chí Tao đàn của nhà xuất bản Tân Dân, đồng thời,
còn cộng tác với các báo: Loa, Ngọ báo, Đông Tây, Tiểu thuyết
thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san…
Ngoài ra, ông còn làm diễn viên nghiệp dư trong
các vở tuồng và kịch lịch
sử tại Nhà hát lớn Hà Nội, làm diễn giả thường xuyên
của Hội Trí tri, cộng tác với Hội truyền bá quốc ngữ của Nguyễn Văn Tố…
Cuối năm 1943, sau khi Lan Khai
ra tù vì tội viết cuốn Lầm than, gia đình ông lâm vào tình cảnh
túng quẫn, cộng thêm bệnh hen suyễn hành hạ ông, nên ông đã phải đưa vợ con
về lại quê nhà. Tại đây, ông mở hiệu sách Lan đình bán các loại sách
báo, tiếp tục viết văn, dạy học và vẽ truyền thần.
Trong một ngày
gần cuối năm 1945, Lan Khai bị một nhóm người khác phe phái thủ
tiêu tại Tuyên Quang.
Nhà văn của những người lầm than Lan Khai
chết thật mờ ám. Đang ăn trưa cùng gia đình, ông được giấy của ủy ban xã kêu
lên có việc. Ông bỏ bữa ra đi, đi mãi, đi luôn đến 60 năm sau thân nhân mới mò
được hài cốt ở một vực sâu con suối giữa rừng Tuyên. Lan Khai bị “bọn côn đồ”
(chữ dùng của vị thiếu tướng công an X) xô xuống vực chỉ vì ông là đảng viên
Quốc Dân đảng !
Tác phẩm của Lan
Khai:
Trong 17 năm cầm bút (1928 - 1945), vẻn vẹn có 6 năm
quyết liệt nhất, chỉ tính từ 1939 đến 1942, Lan Khai đã để lại gần 50 cuốn sách
các loại, có thể chia làm ba loại: tiểu thuyết đường rừng, tiểu thuyết tâm
lý xã hội và tiểu thuyết lịch sử.
Tiểu thuyết đường rừng: Tiếng gọi của rừng
thẳm (Tân Dân xuất bản, 1939); Truyện đường rừng (Tân Dân
xuất bản, 1940); Dấu ngựa trên sương (Hương Sơn xuất bản, 1940); Chiếc
nỏ cánh dâu (Duy Tân xuất bản, 1941); Suối đàn (Cộng Lực
xuất bản, 1942)
Tiểu thuyết lịch sử: Ai lên Phố Cát (Tân
Dân xuất bản, 1937); Chiếc ngai vàng (Tân Dân xuất bản, 1937); Cái
hột mận (Tân Dân xuất bản, 1938); Gái thời loạn (Tân Dân
xuất bản, 1938); Liếp-Li (Tân Dân xuất bản, 1938); Bóng cờ trắng
trong sương mù (Tân Dân xuất bản, 1940); Cưỡi đầu voi dữ (Tân
Dân xuất bản, 1940); Cánh buồm thoát tục (Tân Dân xuất bản, 1941); Đỉnh
non thần (Tân Dân xuất bản, 1941); Người thù của mặt trời
(Thành Cát Tư Hãn) (Hương Sơn xuất bản, 1941); Gửi cái xuân tàn (1941);
Theo lớp mây đưa (Tân Dân xuất bản, 1942); Tình ngoài muôn dặm (Tân
Dân xuất bản, 1942); Trăng nước Hồ Tây (Hương Sơn xuất bản, 1942); Trong
cơn binh lửa (Kiến Thiết xuất bản, 1942); Thành bại với anh hùng (Quốc
Gia xuất bản, 1942); Rỡn sóng Bạch Đằng (viết cùng Nguyễn Tố. Duy
Tân xuất bản, 1942); Sầu lên ngọn ải (Duy Tân xuất bản, 1942); Ái-tình
và sự-nghiệp (Đời Mới xuất bản, 1942); Chàng kỵ-sĩ (Đời
Mới xuất bản, 1943); Treo bức chiến bào (Hương Sơn xuất bản, 1949);
Tiểu thuyết tâm lý xã hội : Nước hồ Gươm (Nhật
Nam xuất bản, 1928); Lẩn sự đời (Lê Quang Thiệp xuất bản, 1934); Nơi
ước hẹn (1934); Kiếp con tằm (1935); Cô Dung (Tân
Dân xuất bản, 1936); Lầm than (Tân Dân xuất bản, 1938); Người
hay bóng (Tân Dân xuất bản, 1939); Trang (Tân Dân xuất
bản, 1939); Cơn ác mộng (Tân Dân xuất bản, 1939); Hồng thầu (Tân
Dân xuất bản, 1940); Tiếng khóc trong sương (Tân Dân xuất bản,
1940); Nàng (Hương Sơn xuất bản, 1940); (Đời Mới xuất bản,
1941); Mực mài nước mắt Tội và thương (Hương Sơn xuất bản,
1941); Tình và máu (Hương Sơn xuất bản, 1942); Tội nhân hay nạn
nhân? (Kiến Thiết xuất bản, 1942); Hối hận (Tân Dân xuất
bản, 1943); Mưa xuân (Hoạt Động xuất bản, 1944);
Nghiên cứu lý luận và phê bình văn học: Phê
bình các nhân vật hiện thời: Lê Văn Trương (1940); Phê bình các nhân
vật hiện thời: Vũ Trọng Phụng (1941); Hồ Xuân Hương (1941)…Và các bài viết trên
tạp chí Tao đàn, đáng kể như: Tính cách Việt Nam trong văn
chương (Tao đàn số 4), Thiên chức của văn sĩ Việt Nam (Tao đàn
số 5), Cái nguy mất gốc (Tao đàn số 6), Một lòng tin cần phải
có (Tao đàn số 7), Bàn qua về nghệ thuật (Tao đàn số
7), Phát họa hình dung tâm tính Tản
Đà (Tao đàn số 9-10), Con người Vũ Trọng Phụng (Tao đàn số đặc biệt)…
Sách dịch :Bức thư của người không quen,
dịch của Stéfan Zweig (Đời Mới xuất
bản, 1941); Cái đẹp với nghệ-thuật, phỏng thuật Félicien Challaye (Đời
Mới xuất bản, 1943); Tuổi thơ (1944, dịch của Lev Tolstoy)
Thơ : Theo Nguyễn Vỹ, Lan Khai có làm khá nhiều
thơ, ký tên là Lâm Tuyền Khách, làm thơ chỉ để bạn làng thơ ngâm chơi,
không bao giờ thấy in trên sách báo
Đánh giá :
Thi sĩ Nguyễn
Vỹ, người cùng thời, kể:
“Nhà văn “đường rừng” là biệt hiệu của anh em
làng văn Bắc Hà đã tặng cho Lan Khai, vì anh chuyên viết các
truyện về Mạn Ngược, nghĩa là về các vùng Thượng du Bắc Việt, nơi anh đã sinh
ra…Anh bỏ nghề giáo viên, cũng chỉ vì anh mải nghe tiếng gọi của “rừng thẳm”,
tiếng gọi mà anh ghi chép say sưa thành những bóng vang huyền bí trong các tác
phẩm văn chương và trong các nét họa của anh…Ở anh, dù là văn sĩ hay họa sĩ,
cũng đều là cái “tài tử”, theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi cho nó QA hồi
tiền chiến, là không “không cầu lợi”. Nói khác hơn, Lan Khai là một trong số
văn nhân chịu hy sinh cho lý tưởng nhiều hơn, thích sống đời thanh cao nho nhã
hơn…Anh, quả là một tâm hồn thuần túy mơ mộng, rất đa cảm, đa tình. Anh có hai
vợ, lại được rất đông nữ độc giả mến phục, nhưng anh không thích ở với gia đình
và có lẽ anh cũng không có cuộc tình duyên nào lâu dài và tha thiết…Cũng có lẽ
tại anh thích sống cuộc đời lý tưởng quá…
Nói về khía cạnh khác của Lan Khai, Nguyễn Vỹ
viết:
…Một hôm được tin bà vợ cả ở Tuyên Quang đau nặng
gần chết. Anh đến nhà xuất bản hỏi mượn trước một món tiền để về tỉnh nhà lo
thuốc men cho vợ. Nhưng chủ một nhà in lớn ở Hà Nội, trả lời rằng không có sẵn
tiền…Nài nĩ mãi không xong, anh đành rút trong túi ra một xấp bản thảo kèm theo
những lời hứa hẹn sẽ sớm hoàn thành mới mượn được hai chục đồng…Về nhà, anh vứt
xuống giường mấy tờ giấy bạc, nước mắt chảy tràn trề trên đôi má: “Toa thấy
không, Vỹ? Mẹ cha cái kiếp chúng mình!”. Hôm rôi bị người Pháp bắt và bị còng
tay đưa lên xe lửa Hà Nội, trong đám bạn bè quen thuộc tôi thấy có mặt anh Lan
Khai. Hôm ấy anh ốm quá, mặt xanh xao gầy còm, không có đánh phấn như mọi khi.
Tôi mỉm cười ngó anh. Anh đáp lại bằng một cái nhìn đăm chiêu tịch mịch. Sau
này, trong thời kỳ đồng bào miền Bắc di cư, tôi có tìm kiếm các bạn cũ đất Hà
Thành. Một đôi bạn cho tôi biết Lan Khai đã bị thủ tiêu ở Tuyên Quang. Tôi
nghẹn ngào, không nói được. Tôi biết anh là người của Việt Nam Quốc dân Đảng, bạn đồng chí rất
thân của Nhượng Tống. Đó là nguyên do người ta thù ghét anh…
Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét:
“Lan Khai là một lão tướng trong làng tiểu thuyết
đang gắng tìm đường mới, nhưng trước khi ông tới đích, người ta không thể quên
lối cũ của ông, lối tiểu thuyết truyền kỳ nó đã làm cho ông được một hồi nổi
tiếng.
GS. Phạm Thế Ngũ:
Trong những nhà văn của nhóm Tân Dân, có lẽ Lan
Khai là cây bút biết tự săn sóc và có nhiều đức tính văn chương hơn cả. Ở những
trang viết kỹ càng, ta thấy một bút pháp thật già giặn, điêu luyện. Ông có một
trí quan sát tinh tế, có một số vốn ngôn ngữ chuẩn xác, khúc chiết, nhiều khi
giàu những hình ảnh rất tân kỳ…Ở tiểu thuyết đường rừng, ông thường huyễn hoặc
người đọc bằng những bức tranh thiên nhiên đầy những ấn tượng hình sắc và âm
thanh. Về tiểu thuyết lịch sử, Trương Tửu khen ông sở trường khi tả những cảnh
oanh liệt và những cảnh say sưa tình ái…Về tiểu thuyết xã hội, ông khá thành
công trong truyện “Cô Dung” và “Lầm than“. Truyện “Lầm than“,
ông chủ ý mô tả những nỗi khổ của hạng thợ mỏ, được nhà văn Hải
Triều xem nó như là một bước mới của tiểu thuyết Việt vào con đường
hiện thực xã hội (réalisme social). Ông viết tác phẩm này, cốt để hưởng ứng
phong trào đấu tranh thợ thuyền nổi lên ở Pháp và
ở Đông Dương khi đó (1937), rồi không thấy
ông trở lại khuynh hướng này nữa .
Ngoài những sách có tính chất kiếm tiền chợ, Lan
Khai để lại một tác phẩm có thể sánh ngang với Bước đường cùng của
Nguyễn Công Hoan. Ấy là cuốn Lầm than – quyển tiểu thuyết lấy nguyên mẩu
những người thợ mỏ than khốn cùng ở Tuyên mà nhà phê bình văn học macxit Hải
Triều đã dùng làm điểm tựa trong cuộc tranh luận với phái “Nghệ thuật vị nhân
sinh”
(Còn một kỳ nữa) THÁI DOÃN HIỂU (theo NGUYỄN TRỌNG TẠO)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét