Cách mạng Văn hóa ở Trung quốc thực chất là một cuộc thanh trừng phe phái khốc liệt chưa từng có nếu đem so với Tần Thủy hoàng. Mười triệu nạn nhân đã chết thảm dưới tay “người cầm lái vĩ đại” Mao Trạch Đông. Theo trưng cầu dân ý toàn Trung Quốc thì ông ta có 7 phần tội 3 phần công. Lấy Tần Thủy hoàng làm thần tượng, Mao đã thống nhất được Trung nguyên, nhưng xài tốn xương máu Dân Trung Hoa đến 60 triệu nhân mạng, trong đó chưa kể đến 39 triệu người chết đói trong phong trào đại nhảy vọt cuối thập niên 50 của thế kỷ trước.
Có hai cái chết thương tâm nhất là của Chủ
tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và Nhà văn lớn Lão Xá. Tôi có theo dõi rất sát và kỹ
những ngày tận số của hai ông.
Ông Lưu Thiếu Kỳ và phu nhân bà Trương
Quang Mỹ là người cách mạng chân chính, nhân hậu theo đánh giá của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, người đã sang thăm Việt Nam và được nhân dân ta tôn kính.
Ông bị Mao Trạch đông chụp cho cái mũ “tên lãnh đạo cao cấp chủ trương đi con
đường tư bản chủ nghĩa trong đảng”. Ông Lưu bị hành hạ đấu tố, tra tấn, bỏ đói
hàng mấy tháng trời, thân bại danh liệt. Còn tác giả Tường Lạc đà Lão
Xá người về sau được tặng giải Nobel nhưng Hội đồng Hàn lâm viện Hoàng gia Thụy
Điển rút lại vì giải chỉ thưởng cho người còn sống. Lão Xá bị bọn thanh niên
choai choai mặc sắc phục Hồng vệ binh xông vào nhà riêng đập ông chết tươi trên
bàn làm việc. Chúng hè nhau vứt thi thể ông xuống hồ. Chưa đã, khi thấy xác ông
nổi lên, chúng dùng câu móc vào thắt lưng ông kéo lên bờ đánh, đạp phũ phàng.
Mao Trạch Đông đã thanh toán sạch những đối thủ chính trị đáng gờm của mình,
những người có nguy cơ làm cho cái ghế hoàng đế của ông ta lung lay kể từ
“người bạn chiến đấu thân mật của người” là Lâm Bưu, “tướng bọc đường”
Bành Đức Hoài, Bí thư thành ủy Bắc Kinh Bành Chân…
Ở nước ta, một số các nhà văn, nhà văn hóa
Việt Nam
cũng có những cái chết bất đắc kỳ tử, mờ ám. Tôi cho rằng những kiểu chết của
các vị dưới đây là không minh bạch, vô cùng bất công, cần được công luận minh
oan, chiêu tuyết cho những oan hồn:
Tôn Nữ Thu Hồng hay Thu Hồng (1922-1948), là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Tôn Nữ Thu Hồng, sinh ngày 19 tháng 7 năm 1922 tại Tourane (Đà Nẵng), nhưng quê quán gốc là làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên-Huế).
Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà
Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học
tại trường Đồng Khánh (Huế).
Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập thơ đầu
tiên (và cũng là duy nhất):Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà
xuất bản), có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ
Mộng Hoa.
Giới thiệu Thu Hồng, trong quyển Thi nhân Việt Nam có đoạn viết:
“… người có cái ý rất đáng quý là diễn đúng hình
dáng riêng của hồn mình. Có thể vì thế mà giọng nói của người có vẻ ngọng nghịu
rất ít có trong thơ ta....Thực ra, Thu Hồng cũng chỉ là trẻ con ở cái giọng,
khi người ta muốn sống hoài trong thời thơ ấu…(vì) người thiếu nữ ấy đã biết
tình yêu là "mầm chán nản" và người ước ao:
Mầm chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chớ len vào sớm quá, tội em mà!Em nghe như thời ấy vẫn còn xa,
Em chầm chậm để mong còn xa mãi,
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái,
Hòa nồng hương mà trái lắm khi chua.
Thật là ngây thơ trong trắng :
Kìa trăng vỡ trong hồ khi nước động,
Sóng lao xao lấp loáng, ánh xa ngời.
Và búp hoa nghểnh dậy đón hương trời,
Cây tuôn bóng, lửng lơ, đò chẳng lướt!
Cảnh đẹp cứ dàn thêm bước bước,
Lời ngợi khen mỗi phút lại thay thay.
Tơ lòng với đẹp đêm nay
Rộn ràng thổn thức vì say nhiệm màu.
(Sóng thơ - Tơ lòng với đẹp)
Lúc ấy chỉ ngoài 20 tuổi, nữ sĩ đã bắt đầu nhận thức được cái kiếp ngắn ngủi và buồn tẻ của con người.
Lịch trên tường mỗi ban mai tay xé,
Xé dần, đem vứt xuống giỏ mây đan.
Phải đây là xác chết của thời gian?
Mỗi tờ xuống, một ngày đi biệt tích?
Tay ngần ngại cũng thôi đành vô ích,
Vì hôm nay không dính dáng ngày mai.
Lúc bình minh trong sương sớm chưa phai
Là giấy biết thân mình không thể gắng
Người đâu khác dẫu trăm ngàn cay đắng,
Vói tay dài mong níu lại ngày đi
Ý điên rồ người đeo đuổi làm chi,
Tờ mỏng quá, khác đâu ngày qua chóng!
Tình lưu luyến khiến âu sầu phấp phỏng
Lịch cùng ta nào có khác chi nhau?
Lịch hàng năm đem thay đổi một màu
Người một tuổi chớ mơ mòng lui lại
Lịch còn mãi, đời đâu dài được mãi?
Tờ rã tan ra tro bụi chôn vùi...
(Lịch)
Một gịong thơ tinh tế sâu đằm. Năm 1941, bà và
thơ của bà được Hoài Thanh-Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm
1942).
Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu
Trọng giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển
trung), xuất bản tại Sài Gòn. Và theo sách này, thì nữ sĩ Tôn Nữ
Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát.
Thu Hồng là trí thức nói tiếng Pháp thành
thạo, nhà cô thường tụ tập các thanh niên trí thức. Cô bị nghi ngờ làm gián
điệp cho Tây, bị công an bắt, giam giữ và tra khảo mấy tháng trời, không lấy
được cung. Cuối cùng, giết nhầm còn hơn bỏ sót, cô bị thủ tiêu giữa rừng Thừa
Thiên. Kể lại chuyện đau lòng này, ông Đào Hữu Thiết cán bộ an ninh người chứng
kiến vẫn nhớ như in vóc dạc cao to như gấu, khuôn mặt dữ dằn, rậm râu sâu mắt
của tên sát nhân Trừng. Trên đường giải cô lên Ty công An Thừa Thiên - Huế, hắn
đã bắn lén cô từ đằng sau lưng. Tiếng súng chát chúa vẫn còn lộng óc khi ông
Hoài Nam
(bút danh của Đào Hữu Thiết) đã vào tuổi 87. Ông sĩ quan an ninh ngồi viết
tiểu thuyết tình báo trong dàn dụa nước mắt. Ông cũng bị nghi ngờ, bắt giam
nhốt cùng Thu Hồng. Ông bảo cô ấy dịu dàng nết na, đẹp lắm, tôi yêu cố ấy. Hai
người có làm thơ tặng nhau. Thu Hồng bảo Hoài Nam :
Bên bờ cát trắng phau phau ấy
Ai hiểu lòng mình ? Anh hiểu không ?
Nàng thơ ra đi ở tuổi 26. Năm đó là tháng
chạp năm 1948.
Ngô Tất Tố (1894 – 1954) là một nhà văn,
nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.). Ngô Tất
Tố là đại diện tiêu biểu cho những thay đổi của một lớp người trí thức trong
giai đoạn giao thời, sự dung hòa tương thích giữa nền văn hóa mới và cũ.
Ngô Tất Tố sinh năm 1893 mất năm 1954 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì, ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.
Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm
báo. Ông viết cho tờ An Nam tạp chí. Nhưng vì thiếu
tiền, tờ báo này phải tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng với Tản
Đà đã vào Sài Gòn. Mặc dù không thật sự thành công
trong cuộc thử sức ở Nam Kỳ, nhưng tại đây, Ngô Tất Tố đã có cơ hội tiếp cận với
tri thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính thức của Pháp cũng như
theo đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành một nhà báo chuyên nghiệp.
Trong thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà,
Tân Thôn Dân...
Sau gần ba năm ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố trở ra Hà
Nội. Ông tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài cho các báo: An Nam tạp
chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần
báo, Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ,Tiểu thuyết thứ
ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời báo, Thời
vụ, Hà Nội tân văn... với 29 bút danh khác nhau như : Thục Điểu,
Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ...
Trong thời gian những năm 1936-1939, Ngô Tất Tố viết nhiều tác phẩm chỉ trích
quan lại tham nhũng phong kiến. Hà Văn Đức, trong bài viết Ngô Tất Tố -
Nhà văn tin cậy của nông dân (báo Nhân dân, ngày 10 tháng 6 năm
1997), cho biết năm 1935, Ngô Tất Tố từng bị chánh sở mật thám Hà Nội gọi lên
"để mua chuộc", nhưng ông từ chối. Ngoài ra, nhiều lần Ngô Tất Tố bị
cấm viết báo và bị trục xuất khỏi Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định. Năm 1939, chính quyền thuộc địa ra lệnh cấm tác
phẩm Tắt đèn. Nhà Ngô Tất Tố ở Bắc Ninh bị
nhà chức trách khám xét và ông bị bắt giam ở Hà Nội vài tháng.
Về sự nghiệp báo chí, người ta tìm
thấy 1.350 tác phẩm (gần 4.500 trang) đã đăng báo của Ngô Tất Tố với 59 bút
danh khác nhau. Năm 2005, tại hội thảo Những phát hiện mới về thân thế và
tư cách nhà văn hóa của Ngô Tất Tố, một thống kê khác được công bố cho
biết trong 28 năm làm báo, Ngô Tất Tố đã viết gần 1.500 bài (mới tìm thấy 1.360
bài) cho 27 tờ báo và tạp chí với 29 bút danh. Di sản báo chí của Ngô Tất Tố
trở thành những tư liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toán diện và trung thực
xã hộiViệt
Nam đầu thế kỷ XX.
Các tác giả trong đề tài nghiên cứu nói trên kết
luận rằng tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đạt được năm thành tựu cơ bản:
thuyết phục, truyền cảm, điển hình hóa mà không hư cấu; nghệ thuật trào lộng,
đả kích và phong cách đậm đà bản sắc dân tộc. Về thái độ làm báo, Ngô Tất Tố
được đánh giá là một nhà báo có dũng khí, trung thực, thẳng thắn, nhạy bén và
cập nhật tình hình khẩn cấp
Với tư cách là nhà nghiên cứu , Ngô Tất
Tố nghiên cứu rất nhiều thể loại khác nhau ông rất giỏi về nghiên cứu các thể
loại văn thơ
Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, Ngô Tất Tố tham
gia vào ủy ban giải phóng ở xã Lộc Hà quê ông. Năm 1946, Ông gia nhập Hội văn
hóa cứu quốc và lên Việt
Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Thời gian này, Ngô
Tất Tố đảm nhiệm cương vị Chi hội trưởng chi hội văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở
Sở thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu XII,Thông
tin khu XII, tạp chí Văn nghệ, báo Cứu quốc
trung ương... Ngoài ra, ông còn viết văn. Ngô Tất Tố được bầu vào vị trí ủy
viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam tại đại hội Văn nghệ toàn quốc
lần thứ nhất (1948).
Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của
trào lưu hiện thực phê phánở Việt Nam trước
1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt
đèn, Việc làng,Tập án cái đình.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) từng khen
ngợi Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn
phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng
thấy". Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hươngtháng 12 năm 2003,
gọi những tác phẩm viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn
diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân
Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa và bền vững"
Từ một góc nhìn khác, nhà phê bình văn
học Vương Trí Nhàn, trong bài Ngô Tất Tố và một cách
thích ứng trước thời cuộc trích từ cuốn Nhà văn tiền chiến và quá
trình hiện đại hóa (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005),
viết Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết "rất xúc
động" khiến người đọc có thể "nhiều phen ứa nước mắt".
Còn thiên phóng sự Việc làng được coi là
một trong những tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn
Việt Nam
trước năm 1945. Phong Lê, trong bài đã dẫn, cho rằng Việc làng phản
ánh "tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ tục, nó tồn
tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết Việc làng,
mà cả cho đến hôm nay".
Tính chất giao thời trong ngòi bút của Ngô
Tất Tố thể hiện rõ nét trong tác phẩm Lều
chõng
Lều chõng ghi lại một thiên phóng
sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến trong những ngày cuối
cùng, dưới triều Nguyễn, miêu tả tấn bi kịch của những nhà nho có
tài trong xã hội phong kiến và được coi là lời chỉ trích sâu sắc những tồn tại
của nền văn hóa cũ.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét về sự thay đổi ở Ngô Tất
Tố: "ông vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được
người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán có tư tưởng
mới" (Nhà văn hiện đại)
Tác phẩm của Ngô Tất Tố : Ngô Việt
Xuân Thu (dịch, 1929); Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929); Vua
Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện ký lịch sử, 1935); Đề
Thám (truyện ký lịch sử, viết chung, 1935); Tắt
đèn (tiểu thuyết, báo Việt nữ, 1937), (Mai Lĩnh xuất bản,
1939); Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, báo Thời
vụ, 1939-1944), (Mai Lĩnh xuất bản, 1952); Tập án cái đình (Phóng
sự,1939); Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940); Đường thi (sưu
tầm, chọn và dịch, 1940); Việc làng (phóng sự,
báo Hà Nội tân văn, 1940-1941), (Mai Lĩnh xuất bản, 1941); Thi văn
bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941); Văn học đời Lý (tập
I) và Văn học đời Trần (tập II) (trong bộ Việt Nam văn
học) (nghiên cứu, giới thiệu, 1942); Lão Tử (biên soạn chung,
1942); Mặc Tử (biên soạn, 1942); Hoàng Lê nhất thống chí (dịch,
tiểu thuyết lịch sử, báo Đông Pháp, 1942); Suối thép (dịch,
tiểu thuyết, 1946); Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện
vừa, 1946); Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946); Duyên máu (dịch,
truyện ngắn, 1946); Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn,
1946-1954); Địa dư các nước châu Âu (biên soạn chung với Văn Tân,
1948); Địa dư các nước châu Á, châu Phi (biên soạn chung với Văn
Tân, 1949); Địa dư Việt Nam (biên soạn, 1951); Nữ chiến sĩ
Bùi Thị Phác (kịch bản chèo, 1951); Đóng góp (kịch,
1951); Kinh dịch (chú giải, 1953); Ngô Tất Tố và tác phẩm (tuyển
tập, 2 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1971, 1976); Ngô Tất Tố - Toàn tập (5
tập, Nhà xuất bản Văn học, 1996); Ngô Tất Tố - Toàn tập, bộ
mới (dự kiến 30 tập, Nhà xuất bản Hội nhà văn - Công ty văn hóa Phương
Nam, 2005).
Giải thưởng Hồ
Chí Minh (đợt 1).
Gần ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội Văn
nghệ Việt Nam họp trên đồi
Nhã Nam.
Cuộc đấu tố của văn nghệ sĩ diễn ra gay gắt căng thẳng. Người ta đã vu cáo
những chuyện tày trời, quyết liệt dồn Ngô Tất Tố vào tận chân tường. Tác giả Lều
chõng và Việc làng đã phạm tội phục cổ nhằm mục đích gì
? Và, Ngô Tất Tố đã qua đời vào đêm 20 tháng 4 năm 1954 bằng thắt cổ
tại nhà riêng ở Yên Thế, Bắc
Giang. Cái sự chết của nhà văn khắc nghiệt đến mức nghĩa trang liệt sĩ
xã ở địa phương từ chối không cho chôn.
Nhượng Tống (1904-1949), tên thật là
Hoàng Phạm Trân, vì bút danh Nhượng Tống nên còn được gọi là Hoàng Nhượng Tống.
Ông là nhà văn, nhà báo,
dịch giả tài hoa số 1 của Việt Nam và là nhà cách mạng Việt Nam.
Ông là người làng Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên,
tỉnh Nam Định.
Thời gian ông viết và dịch sung sức nhất là
khoảng thập niên 1940 với những truyện dịch cũng như
trứ tác khác.
Tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học tham gia Nam Đồng thư xã và thành lập chi bộ để tiến
tới thành một đảng cách mạng. Song khác với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Nguyễn Thái Học... Nhượng Tống chủ trương "hòa
bình cách mạng", tức không ủng hộ tư tưởng "bạo lực cách mạng",
dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc."
Ngày 25
tháng 12 năm 1927, Nhượng Tống cùng với các đồng chí thành lậpViệt Nam Quốc dân Đảng tại làng Thể
Giao, Hà Nội. Ông là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ với vai trò
trọng yếu trong việc biên soạn văn thư tuyên truyền và huấn luyện đảng viên.
Năm 1929, theo kế hoạch của
Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống vào Huế gặp Phan Bội Châu, nhưng khi trở ra khi thì bị Pháp đón
bắt. Hội đồng đề hình tuyên án ông 10 năm tù rồi đày ra Côn
Đảo mãi đến năm 1936 mới được tha, nhưng vẫn chịu sự quản thúc tại quê
nhà.
Khi ông đang ở nhà lao Côn
Đảo, thì các đồng chí của ông tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng bị thực dân Pháp đàn áp và khủng bố.
Sau Cách mạng tháng Tám, vào tháng 12 năm 1945, ba đảng phái
là: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng liên minh thành Mặt
trận quốc dân đảng Việt Nam, rồi cùng tham gia vào Chính phủ Liên hiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, Pháp tái chiếm liên bang Đông Dương, thì Chính phủ Liên hiệp
Việt Nam
tan vỡ.
Năm 1947, hết thời gian bị
quản thúc, Nhượng Tống trở lại Hà Nội (1947), rồi cùng với một
số đồng chí tái tổ chức lại hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng tại một số vùng
do quân Pháp kiểm soát.
Ngày 17 tháng
2 năm 1947,
Việt Nam Quốc dân đảng tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc, chống
lại chính quyền Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo
Đại, thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm cố vấn cho Tổng trấn
Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính
khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng, nên đầu năm 1949, ông lặng lẽ trở
về hành nghề thầy thuốc
Bắc tại 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Ngày 8 tháng 11 năm 1949, Nhượng Tống bị
công an mật Việt Minh ám sát tại Hà Nội vì
bị cho là phản quốc.
Tác phẩm dịch c ủa Nhượng Tống :
Trang tử, Nam Hoa
kinh, Hà Nội: Tân Việt, 1945 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1962; tái
bản sau 1975: Văn học, 2001); Khuất Nguyên, Ly tao, 1944
(in lại trong: Khuất Nguyên, Sở từ, Đào
Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch, Hà Nội, Nxb Văn học, 1974); Thơ Đỗ
Phủ, Hà Nội: Tân Việt, 1944 (tái bản sau 1975: 1996); Sử ký Tư Mã Thiên, Hà Nội: Tân Việt, 1944; Vương Thực Phủ, Mái Tây (Tây sương ký), Hà Nội: Tân Việt,
1944 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt; in lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1963; sau 1975:
Văn học, 1992); Tào Tuyết Cần, Hồng lâu mộng, 1945; Lão tử, Đạo đức kinh, 1945; Khổng tử, Kinh Thư, Sài Gòn: Tân Việt, 1963; Văn dịch
ký bút danh Mạc Bảo Thần: Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Tân
Việt, 1945 (tái bản: Sài Gòn: Tân Việt, 1964); Nguyễn
Trãi, Lam Sơn thực lục, Tân Việt, 1945 (in lần 2: Sài Gòn: Tân
Việt, 1949; lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1956).
(Còn hai kỳ nữa)
THÁI DOÃN HIỂU (TranNhuong.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét