24 thg 9, 2014

Nhớ Giáo sư Lý Chánh Trung : “Nói với người đã khuất”. của TRỊNH KI(M THUẤN .


 Riêng gởi Giáo sư Lý Chánh Trung – Sài Gòn

45 năm trước, một hôm, tôi , Nguyễn Thanh Nhàn và Võ Phước Triệu rủ nhau đi Định Quán chơi vài hôm. Sáng 3/9/1969, chú Chín Bá (chú ruột của Triệu) đưa chúng tôi đến ăn sáng, điểm tâm tại Restaurant Hiền Đức và tiễn chúng tôi về Sài gòn. Đến Sài gòn đã quá trưa, ba đứa dạo phố , Nguyễn Thanh Nhàn ở lại Sài Gòn tiếp tục làm công nhân trong nhà in của người cô ruột ở đường Trần Quốc Toản ( 3 tháng 2 ), tôi và Triệu cùng xuống Mỹ Tho.

Chuyến xe lô Sài gòn – Mỹ Tho (loại xe du lịch quá đát, chuyển sang làm xe đò gọi là xe lô), trên xe có radio. Vào khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi sững sờ khi nghe radio loan tin: “Ông Hồ Chí Minh ở Hà Nội vừa từ trần!” .

Sáng hôm sau 04/9/1969, anh Tư, anh rể thứ tư của tôi, đang đi lính ở đây, xin phép nghỉ dẫn chúng tôi tham quan thành phố Mỹ Tho. Thành phố này là quê hương của bà Sáu (phu nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu). Đi ngang nhà bà Sáu, công viên Lạc Hồng, thuê đò sang Cồn Phụng – giang sơn của ông Đạo Dừa.


Ông Đạo Dừa tên thật là Nguyễn Thành Nam, kỹ sư.  Thời ấy kỹ sư rất hiếm, nhưng không hiểu sao ông không đi làm chính trị hay kinh tế kiếm tiền mà lại đi tu? Nghe nói ông chỉ ăn toàn là dừa và uống nước dừa. Vì thế gọi đạo của ông là Đạo Dừa. Ở đầu Cồn Phụng là nơi ông ở và tu luyện cùng các tín đồ. Gọi là Giang san của ông cũng không ngoa vì tại đây, ông nuôi và chứa chấp đào binh cả 2 bên, cả lính giải phóng và linh quốc gia. Cũng lạ, đây là điều cấm kỵ của chính quyền sở tại, mà không hiểu sao lực lượng quân đội, cảnh sát  địa phương không hề bố ráp.

Đến Cồn Phụng, quả thật làm hai chúng tôi hết sức ngạc nhiên, bởi chẳng khác gì một thành phố thu nhỏ. Có hoa kiểng, có các lối đi nhỏ, đẹp, khang trang và được đặt tên các đường như: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi…

Nơi điện thờ được chia làm hai: một bên treo ảnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, một bên ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên trên có dòng chữ to: BẤT CHIẾN TỰ NHIÊN THÀNH. Phía bên ngoài đắp một bản đồ xi măng, trên đó có đủ các tỉnh, thành phố cả nước. Đặc biệt, có một mô hình Sài Gòn, Huế, Hà Nội, có 3 cây trụ to, phía trên là sợi dây cáp nối đầu 3 trụ. Người hướng dẫn giải thích: Mỗi tối, ngài (Đạo Dừa) lên ngồi trong cái giỏ, đệ tử kéo lên đầu trụ, đầu hôm ngài ngủ ở “Sài Gòn”, giữa đêm kéo ngài ra “Huế”, gần sáng kéo ngài ra “Hà Nội”. Đến sáng thì kéo ngài xuống. Ngài cùng các đệ tử xuống thuyền Bát nhã cầu nguyện…

Trên Cồn Phụng đầy đủ các tiện nghi cho khách tham quan và có thể gia nhập đạo trong lúc tham quan. Thấy không khí nơi điện thờ hơi xôn xao,  chúng tôi hỏi, người hướng dẫn cho biết: “Hôm nay Ngài tổ chức lễ truy điệu và cầu siêu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh …”! Chúng tôi hoàn toàn ngạc nhiên...

Báo Chính Luận ngày 5/9/1969 đưa tin: Toàn cõi lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, có một nơi dám công khai làm Lễ truy điệu và cầu nguyện cho ông Hồ Chí Minh. Đó là Cồn Phụng, do ông Đạo Dừa chủ trì.

Nguyệt san Đất Nước số 14, ra tháng 10/1969, có bài viết chủ lực của Gs. Lý Chánh Trung với tựa đề Nói với người đã khuất. Đó cũng là một cử chỉ can đảm không kém gì ông Đạo Dừa. Giữa hai phía đang chiến đấu một mất, một còn mà ông Giáo sư viết bài khen ngợi và tôn vinh ông Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn có thể sánh với Thủ tướng Neiru của Ấn Độ.Trong bài viết, GS nhắc tới 1 câu nói của ông Hồ : “Ông Ngô Đình Diệm cũng là người yêu nước, nhưng ông yêu nước theo cách của ông ấy ”. Nghĩa là ông Diệm cũng yêu nước nhưng  đường lối và cách thực hiện thì sai lầm… Thật lòng, bài viết của ông GS Lý Chánh Trung khiến tôi nể phục. 

Mặc dù còn đi học nhưng chúng tôi vẫn chuyền tay nhau xem bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan. Chúng tôi cũng thường nghe các cán bộ Việt cộng nằm vùng (mà mình không biết) nói về một xã hội công bằng ở miền Bắc. Ở ngoài đấy không còn cảnh người bóc lột người, trong khi miền Nam thì đầy những bất công, ngang trái.  Bắt lính, tham nhũng, nhất là chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, lính Mỹ nhan nhản trên đường, các Snach Bar cùng các cô gái son phấn loè loẹt mỗi tối…

Ngày 30/4/1975, cuộc chiến tranh kết thúc, “có 1 triệu người vui thì cũng có 1 triệu người buồn” (Võ Văn Kiệt). Thực tế cuộc sống mới đã phơi bày ra. Đánh tư sản, Đổi tiền, Cải tạo công thương nghiệp, Cải tạo nông nghiệp… Lần đầu tiên người dân miền Nam mua hàng hoá bằng chế độ tem phiếu. Có lúa đi xay ăn phải xin phép.  Hàng hoá cạn kiệt dần. Trà, cà phê, thuốc lá đối với giới bình dân, nhất là nông dân trở thành xa xỉ.  Trong các đám tiệc ở nông thôn như cưới, giỗ, tang ma…, người ta thay trà bằng đậu rang, cà phê bằng bắp rang, thuốc lá bằng lá bầu sắc phơi khô… Nhưng rồi mười mấy năm cũng  trôi qua.

Các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở về, có một số người nhắc đến vụ Nhân Văn – Giai phẩm, Cải cách ruộng đất…  Chỉ biết là có nhiều người chết tức tưởi, oan uổng!... Tôi chỉ nghe qua loa bằng miệng chứ sách, báo thì tuyệt nhiên không. Mãi đến năm 1988 có hai cuốn tiểu thuyết đề cập đến Cải cách ruộng đất là: Những Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương và Ly Thân của Trần Mạnh Hạo. Sau nữa là chuyện kể của nhà thơ Hữu Loan về người vợ sau của ông là bà Phạm Thị Lộc, cũng là nạn nhân của Cải cách ruộng đât.

Sau khi có internet thì tôi mới biết được nhiều hơn về những bí mật của vụ án Nhân văn -  Giai phẩm và Cải cách ruộng đất. Đặc biệt, gần đây nhờ cuộc triển lãm CCRĐ được mở ra ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia khai mạc ngày 08/9 đã làm cho thông tin về CCRĐ bùng nổ. Tôi biết thêm được nhiều, đặc biệt là qua các bài viết của Trần Mạnh Hảo, Ngô Minh, Tạ Hữu Đỉnh, hồi ký của Trần Huy Liệu…

Cũng qua các bài viết nầy, một số nhà văn sưu tầm cho biết ở Miền Nam cũng có Cải cách Điền địa (Cải cách ruộng đất) thời ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Các tài liệu nầy cho biết một sự thật hoàn toàn khác với CCRĐ ở miền Bắc…

Lịch sử đã sang trang, nhưng các chứng tích vẫn còn, thời gian cầm quyền của Ngô Đình Diệm tuy ngắn ngủi ( 9 năm), phải mất đi 3 – 4  năm đầu để ổn định chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, dân sinh… nhất là phải lo toan cho 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.  Giờ nầy dù ai không thích cũng không thể phủ nhận công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông đã xây được nền móng cho tự do, dân chủ và phát triển cho miền Nam, nhưng cuộc sống đã không ủng hộ ông…

Trên WIKIPEDIA – Bách Khoa toàn thư ghi như sau:

Ngô Đình Diệm ( 19011963) là một chính trị gia Việt Nam. Ông là quan nhà Nguyễn, Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam và là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa….

…..Quyết tâm tránh các biện pháp mà Ngô Đình Diệm coi là "ăn cướp và tra tấn dã man" như phong trào Cải cách ruộng đất tại miền Bắc, Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị cho các quan chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn, chứ không tịch thu[25]. Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn này để bán cho các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không phải trả lãi trong kỳ hạn sáu năm để mua. 

Cũng theo WIKIPEDIA – Bách Kho toàn thư|:

Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890  2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ choViệt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945  1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 1969.

Cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957. Dù theo tuyên bố của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đã "đánh đổ được giai cấp địa chủ cùng bọn Việt gian phản động",[133] cuộc cải cách này đã phạm nhiều sai lầm[134] nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng, những vụ sát hại này đã "gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế".[135] Trước tình cảnh đó, từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc

Chế độ nền đệ nhất cộng hoà ở miền Nam sụp đổ, nhà Ngô bị đảo chính, dẫn đến cái chết bi thảm cùa hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Lý do bị đảo chính là :

 Tuy chống Cộng nhưng Ngô Đình Diệm cũng tuyên bố chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam. Ông nói: 
"Nếu quý vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam" (WIKIPEDIA – Bách Khoa toàn thư )

Đúng thế ! nhận viện trợ của Hoa Kỳ, nhưng lại không nghe lời, không chịu sự điều khiển của Hoa Kỳ thì phải bị hạ bệ thôi .

Khi viết bài “Nói với người đã khuất”, có lẽ ngài Giáo sư Lý Chánh Trung vẫn chưa hiểu nhiều về miền Bắc, nên có cách nhìn như thế, nay biết rõ rồi thì ông lại im lặng luôn, không hăng hái như những năm tháng ngày xưa ấy. Ở miền Nam có 2 nhà văn tôi kính trọng nhất thời ấy là Sơn Nam và Lý Chánh Trung, nhưng sau 30/4/1975 thì 2 nhà văn nầy lại:

Mấy năm trước, sau khi ghé thăm giáo sư Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Lục đã có nhận xét như sau về người bạn đồng nghiệp cũ:

“… sau 1975 … có  mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay”  ( trích Sơn Nam & Cách Mạng Tháng Tám Ở U Minh của i S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến ).

Dù lịch sử đã sang trang, nhưng chứng tích lịch sử vẫn còn đấy. Nhất là trong thời đại internet, chúng ta bỗng biết được nhiều hơn điều chúng ta mong muốn biết. Lịch sử được phơi bày ra, bạch hóa, khiến ai hay, ai dở, ai đúng, ai sai sẽ được người đời nhìn nhận công bằng.

Xin có đôi lời và tấm lòng gởi đến “Những người đã khuất” như Tôn Nữ Thu Hồng, Ngô Tất Tố, Nhượng Tống, Thiều Chửu, Dương Quảng Hàm, Lan Khai, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu (theo Những cái chết tức tưởi của nhà văn. Chuyện bây giờ mới kể của Thái Doãn Hiếu – trannhuong.com), các nhà văn trong nhóm Nhân Văn – Giai phẩm, những người chết oan trong cải cách ruộng đất ở miền bắc 1953 – 1957 và đồng bào, binh lính hai miền Nam – Bắc đã chết trong cuộc chiến hai mươi năm mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết trong bài hát “Gia tài của mẹ “ của mình: Hai mươi năm nội chiến từng ngày” .

18/9/2014  TRỊNH KIM THUẤN .

  • Võ Phước Triệu  nguyên Thư ký toà soạn báo An Giang, nhà văn, nhà thơ thuộc Hội Văn học Nghệ thuật An Giang, nay đã mất
  • Nguyễn Thanh Nhàn , năm 1973 thoát ly vào chiến khu, 30/4/1975  thị xã uỷ viên, Trưởng phòng kế hoạch TX Long xuyên – An Giang, nay nghĩ hưu .


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tìm thông tin blog